Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
ĐPS T1B.003 CHƯƠNG 9 LỊCH SỬ 24 VỊ PHẬT TỔ
Tác giả bàn sơ về chữ Miến Buddhavan, bắt nguồn từ chữ Pāḷi Buddhavaṁsa. Rồi tác giả nói tiếp như sau: Định nghĩa về chữ Buddhavaṁsa là như thế này: Ito heṭṭha kappasatasahassādhikesu catūsu asaṅkhyeyyesu uppaññānaṃ pañcavīsatiyā Buddhānam, uppaññkappādi paricchedavasena paveniviṭṭhārakathā Buddhavaṁso nāma. Từ ịnh nghĩa này, ý nghĩa của chữ Buddhavaṃsa nên ược hiểu là “Sự mô tả và trình bày về dòng dõi của 25 vị Phật, những bậc ã xuất hiện trải qua 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn ại kiếp, với 32 chi tiết như các ại kiếp có liên quan, tên của các Ngài, thọ tộc (họ), gia ình, v.v... là Buddhavaṃsa.”
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:5926

Các tên gọi khác

Tác giả bàn sơ về chữ Miến Buddhavan, bắt nguồn từ chữ Pāḷi Buddhavaṁsa. Rồi tác giả nói tiếp như sau: Định nghĩa về chữ Buddhavaṁsa là như thế này: Ito heṭṭha kappasatasahassādhikesu catūsu asaṅkhyeyyesu uppaññānaṃ pañcavīsatiyā Buddhānam, uppaññkappādi paricchedavasena paveniviṭṭhārakathā Buddhavaṁso nāma. Từ ịnh nghĩa này, ý nghĩa của chữ Buddhavaṃsa nên ược hiểu là “Sự mô tả và trình bày về dòng dõi của 25 vị Phật, những bậc ã xuất hiện trải qua 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn ại kiếp, với 32 chi tiết như các ại kiếp có liên quan, tên của các Ngài, thọ tộc (họ), gia ình, v.v... là Buddhavaṃsa.”

General Information

Danh sách : Liên quan
:
ĐPS T1B.003 CHƯƠNG 9 LỊCH SỬ 24 VỊ PHẬT TỔ

CHƯƠNG 9 LỊCH SỬ 24 VỊ PHẬT TỔ

]

1. Dīpaṅkarā Buddhavaṁsa                        (Lịch sử Đức Phật Nhiên Đăng)

Tác giả bàn sơ về chữ Miến Buddhavan, bắt nguồn từ chữ Pāḷi Buddhavaṁsa. Rồi tác giả nói tiếp như sau: Định nghĩa về chữ Buddhavaṁsa là như thế này: Ito heṭṭha kappasatasahassādhikesu catūsu asaṅkhyeyyesu uppaññānaṃ pañcavīsatiyā Buddhānam, uppaññkappādi paricchedavasena paveniviṭṭhārakathā Buddhavaṁso nāma.

Từ ịnh nghĩa này, ý nghĩa của chữ Buddhavaṃsa nên ược hiểu là “Sự mô tả và trình bày về dòng dõi của 25 vị Phật, những bậc ã xuất hiện trải qua 4 A-tăng-kỳ và 100 ngàn ại kiếp, với 32 chi tiết như các ại kiếp có liên quan, tên của các Ngài, thọ tộc (họ), gia ình, v.v... là Buddhavaṃsa.”

Đầu biên niên sử của tất cả những vị Phật này cùng với những chi tiết về các Ngài như các ại kiếp, v.v... ược gọi là Buddhavaṃsa. Khi mỗi Ngài ược nói ến thì chữ Buddhavaṃsa cũng có thể áp dụng cho tiểu sử của mỗi vị Phật. Ví dụ: Chữ Tăng (Saṅgha) là từ dùng ể gọi hội chúng các bậc Thánh, tuy nhiên mỗi vị Thánh cũng có thể ược gọi là Tăng hay Thánh Tăng.

Do ó, nên hiểu rằng trong phần Dīpaṅkārā Buddhavaṁsa này, tiểu sử (với ại kiếp mà Đức Phật xuất hiện, v.v...) của Đức Phật Nhiên Đăng sẽ ược ề cập ến.

Trong bộ kinh Buddhavaṃsa, tiểu sử về Đức Phật Nhiên Đăng không nói rõ chi tiết về những sự kiện xảy ra vào lúc thọ sanh và vào lúc chào ời. Chỉ bấy nhiêu ây ược ề cập về Ngài trong Sumedhakathā - Câu chuyện về ẩn sĩ Sumedha.

Evaṃ me siddhipattassa vasibhutassa sāsane 

Dīpaṅkaro nāma jino uppajji lokanāyako 

Uppajjante ca jāyate bujjhante dhammadesane  caturo nimitte nāddasiṃ jhānarati samappito.

(Bồ tát Sumedha, vị ẩn sĩ, nói rằng: “Khi ta ược thành tựu về Samôn pháp như vậy (thiền ịnh và thần thông) thì Đức Phật Nhiên Đăng, Đức Thế Tôn xuất hiện.

Vì mãi nhiếp tâm trong sự an lạc của thiền ịnh nên ta ã bỏ qua không chứng kiến ược những hiện tượng kỳ diệu xảy ra trong bốn trường hợp thọ sanh, ản sanh, thành ạo và chuyển pháp luân của Ngài.”

Như vậy bộ kinh Buddhavaṃsa chỉ nói tóm tắt về sự xuất hiện của Đức Phật Nhiên Đăng trong câu chuyện về ẩn sĩ Sumedha. Chỉ trong bộ Chú giải Buddhavaṃsa chúng ta mới thấy ược câu chuyện ầy ủ về Đức Phật Nhiên Đăng, với các chi tiết về các biến cố ược sắp theo thứ tự bắt ầu từ chương nói về sự tái sanh của Ngài ở cõi trời Đâu suất à (Tusitā).

Cách ây (kiếp hiện tại này là Hiền kiếp - Bhadda kappa) bốn Atăng-kỳ và một trăm ngàn ại kiếp, trong ại kiếp Saramanda (là kiếp có bốn vị Phật xuất hiện) có ba vị Phật lần lượt xuất hiện trong thế gian, ó là Đức Phật Taṅhankara, Đức Phật Medhankara và Đức Phật Saranankara. Sau ó ến trung kiếp Antara kappa, ó là kiếp suy vì thọ mạng của loài người giảm còn một trăm ngàn tuổi. 

Khi ấy tại kinh ô Ramavati, ức vua trị vì là Sudeva. Suốt thời gian trị vì của vị vua ấy, Bồ tát Nhiên Đăng ang thọ hưởng hạnh phúc của ời sống chư thiên ở cung trời Đâu Suất à (Tusitā) sau khi Ngài ã thực hành viên mãn tất cả các pháp Ba-la-mật. Chư thiên từ mười ngàn thế giới ồng cu hội trước Bồ tát Nhiên Đăng và thỉnh cầu Ngài giáng sanh trần thế ể thành Phật cứu ộ chúng sanh. Đáp lại lời thỉnh cầu của họ, Bồ tát thọ sanh vào lòng của hoàng hậu Sumedhā, là chánh hậu của vua Sudeva, vào ngày rằm của tháng Āsalha (khoảng tháng 6 dương lịch), lúc mặt trăng giao hội với sao Uttarāsalha. Sau khi ược chăm sóc kỹ lưỡng bởi ông ảo tùy tùng thị nữ và sau mười tháng tròn, Bồ tát chào ời.

Vào lúc thọ sanh và lúc ản sanh của Ngài, xuất hiện ba mươi hai hiện tượng kiết tường như mười ngàn thế giới rung chuyển, v.v....

Ba mươi hai hiện tượng này thường xảy ra trong bốn trường hợp thọ sanh, ản sanh, thành ạo và chuyển pháp luân của mỗi vị Bồ tát. Những hiện tượng này có chung ối với tất cả các vị Bồ tát và sẽ ược mô tả khi ến phần kể về lịch sử của Đức Phật Gotama. Tuy nhiên trong bộ Chú giải kinh Buddhavaṃsa, ba mươi hai hiện tượng này và những sự kiện phụ ược kể chi tiết ở chương nói về sự thọ sanh của Bồ tát Nhiên Đăng.

Sau ó, Thái tử Nhiên Đăng ược nuôi dưỡng và lớn lên trong cung vàng iện ngọc, và khi ến tuổi trưởng thành Ngài bước lên kế thừa ngôi vị ế vương.

Khi thành vị hoàng ế, Ngài sống trong ba cung iện bằng vàng - cung iện thiên nga (haṃsa pāsāda), cung iện chim cò (koñca pāsāda) và cung iện chim công (mayūra pāsāda), luân phiên như vậy suốt mười ngàn năm. Có khoảng ba trăm ngàn nữ hầu xinh ẹp, trang sức lộng lẫy. Chánh hậu của Ngài là hoàng hậu Padumā và con trai là hoàng tử Usabhakkhandha.

Khi ang thọ hưởng ời sống ế vương trong ba cung iện như ở cõi chư thiên, Thái tử Nhiên Đăng trên ường i dạo chơi ở vườn thượng uyển, Ngài trông thấy một người già, một người bịnh và một người chết do các thiên sứ hóa hiện. Đầy kinh cảm (saṁvega), Ngài rời khỏi vườn thượng uyển và trở về hoàng cung. Ba lần như vậy, Ngài ều trông thấy các cảnh già, bịnh và chết. Khi muốn trở lại vườn thượng uyển lần thứ tư, Ngài cho gọi quản tượng ến và nói rằng: “Hôm nay ta sẽ ến ngoạn cảnh ở vườn thượng uyển. Hãy khởi tập những con voi.” “Thưa vâng, tâu bệ hạ,” người quản tượng nói và trở về sắp xếp oàn voi. Mặc bộ y phục rực rỡ do vị thiên Vissakamma dâng, với tám mươi bốn ngàn con voi và một oàn ại hùng binh theo hầu, Ngài cỡi trên con voi kiết tường và i ến vườn thượng uyển. Sau khi xuống khỏi lưng con voi và i ngoạn cảnh khắp khu vườn, ngồi trên tảng á mát lạnh, dễ chịu, Ngài khởi chí xuất trần từ bỏ thế gian. Rồi Phạm thiên Mahā Brahmā, một vị A-la-hán ở cõi Ngũ tịnh cư (Suddhāvāsa), em ến tám món vật dụng và ặt ở một chỗ ể Bồ tát có thể trông thấy. Trông thấy tám món vật dụng, Bồ tát hỏi chúng là gì. Khi biết ó là ồ dùng cá nhân của vị Sa-môn, Ngài bèn cởi bỏ long bào, áo mão và trao cho vị quan quản khố, rồi dùng thanh kiếm cắt tóc và ném lên không trung. 

Khi ấy, Sakka, vua của chư thiên, cầm cái ô bằng vàng hứng lấy mớ tóc và tôn trí trong bảo tháp Makuta. Bảo tháp ấy bằng ngọc lục bảo, rộng ba do tuần, ược xây dựng trên ỉnh núi Tu-di (Meru).

Bồ tát mặc những chiếc y do Phạm thiên dâng cúng, rồi tung lên trời bộ y phục cũ của Ngài, ược Phạm thiên tiếp nhận và em tôn trí trong bảo tháp Dussa, cao mười hai do tuần, ở cõi Ngũ tịnh cư.

Mười triệu người nghe tin thái tử ã xuất gia cũng noi theo gương Ngài xuất gia làm Sa-môn.

Cùng với những vị Sa-môn ã i theo gương của Ngài, Bồ tát thực hành pháp khổ hạnh gọi là Dukkaracariyā. Vào ngày rằm tháng tư (Vesākha) là ngày mà Ngài sẽ thành Phật, Bồ tát i vào thị trấn ể khất thực. Đó là ngày trùng hợp với ngày mà dân chúng trong thị trấn sửa soạn món cơm sữa ể cúng thần. Tuy nhiên vật thực ấy lại ược dâng cúng ến Bồ tát và mười triệu tùy tùng của Ngài.

Sau khi ộ xong món cơm sữa, Bồ tát trải qua suốt ngày trong rừng cây sa-la ở vùng lân cận và ến chiều, sau khi bỏ lại tất cả tùy tùng, Ngài một mình i ến cây ại bồ ề.

Sự Thành ạo và Chuyển pháp luân 

Trên ường i, Bồ tát nhận lấy tám nắm cỏ từ một người dị giáo tên là Sunanda, và ngay khi mớ cỏ vừa rải xong dưới cội cây bồ ề thì Vô ịch bảo tọa (Aparājita-pallaṅka) có kích thước năm mươi ba hắc tay xuất hiện.

(Nói về bảo tọa có kích thước năm mươi ba hắc tay, một số vị cho rằng kích thước ở ây ám chỉ bề cao và số khác thì cho rằng ó là bề rộng như ã ược tìm thấy trong các bộ Phụ chú giải dưới thời kỳ Inwa. Những lời giải thích chi tiết này sẽ ược bàn ến khi chúng ta i ến câu chuyện về Đức Phật Gotama).

Ngồi kiết già trên ‘vô ịch bảo tọa’ dưới cội cây Bồ-ề, Bồ tát thể hiện bốn mức ộ tinh tấn và chiến thắng Ma-vương cùng ồng bọn. (Bốn mức ộ tinh tấn nghĩa là sự tinh tấn ở bốn mức ộ khi (i) da, (ii) gân, (iii) xương, và (iv) thịt và máu khô cạn). Trong canh ầu Ngài chứng ắc Túc mạng trí, Pubbenivāsa ñāṇa ( trí giúp người ta có thể biết ược những kiếp quá khứ). Canh giữa, Ngài chứng Thiên nhãn trí, Dibbacakkhu ñāṇa (trí thấy ược những cái vi tế ở rất xa mà mắt thường không thể thấy ược). Vào canh cuối, Ngài quán pháp Duyên khởi, Paticcasamuppada theo thứ tự xuôi và ngược rồi dừng lại. Sau ó Ngài nhập vào tứ thiền qua pháp niệm Hơi thở (Ānāpāna) ; xuất khỏi tứ thiền và quán về năm uẩn, Ngài thấy rõ năm mươi ặc tính liên quan ến sự sanh và diệt của các uẩn này và rồi phát triển Minh sát tuệ (Vipassanā) ến Tuệ chuyển tộc (Gotrabhū ñāṇa). Khi mặt trời vừa mọc thì pháp này dẫn ến sự thông ạt ạo quả A-la-hán tất cả những ân ức của một vị Phật và dẫn ến Phật quả tối thượng trong 3 cõi.

Sau khi ã chứng ắc Phật quả, Đức Phật trải qua bảy ngày ở từng nơi trong bảy chỗ quanh cây bồ ề, thọ hưởng sự an lạc của Quả Định (Phala-samāpatti). Rồi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, Đức Phật thuyết bài pháp ầu tiên, Chuyển pháp luân kinh (Dhammacakkapavattana Sutta), ở tại khu rừng Sunandārāma và sau thời pháp có một ngàn triệu nhân loại, chư thiên và Phạm thiên giác ngộ Tứ Diệu Đế.

Vào lúc thành ạo và lúc Chuyển pháp luân của Ngài, ba mươi hai hiện tượng kiết tường xảy ra.

Nhưng hiện tượng này (ở bốn trường hợp khi Bồ tát Nhiên Đăng thọ sanh, ản sanh, thành ạo và chuyển pháp luân) ã xảy ra mà ẩn sĩ Sumedha không hề hay biết vì vị ấy mãi an trú trong sự an lạc của thiền ịnh.

Chuyến hành trình của Đức Phật 

Sau khi thuyết giảng bài pháp ầu tiên, Đức Phật Dīpaṅkarā khởi hành ể em lại lợi ích cho nhân loại, chư thiên và Phạm thiên. Trong khi ang ngụ ở tịnh xá Sudassana trong thành Rammavatī, theo lời mời của cư dân, Đức Phật i ể thọ lãnh vật thực của họ. Trong khi Ngài ang ộ thực thì quả ất chấn ộng dữ dội do kết quả của sự quán xét về các pháp Ba-la-mật của ẩn sĩ Sumedha. Dân chúng lấy làm kinh sợ và hỏi Đức Phật về nguyên nhân của trận ộng ất. Đức Phật dạy rằng không có gì phải sợ hãi vì nguyên nhân là do sự quán xét về các pháp Ba-la-mật của ẩn sĩ Sumedha, dân chúng bèn kéo nhau ến viếng ẩn sĩ và tán dương vị ấy không ngớt lời. Sau ó ẩn sĩ Sumedha trở về chỗ ngụ của vị ấy ở trong rừng. Tất cả những iều này ược kể lại trong câu chuyện Sumedha. Những chi tiết còn lại là như sau:

Khi dân chúng thành Rammavati ã cúng dường vật thực ến Đức Phật Dīpaṅkarā và bốn trăm ngàn vị tỳ khưu của Ngài, họ bày tỏ sự tôn kính Đức Phật bằng những bông hoa, vật thơm, v.v... và rồi ngồi xuống ở chỗ ngồi phải lẽ ể lắng nghe Ngài thuyết pháp.

Rồi Đức Phật Dīpaṅkarā thuyết giảng ến hội chúng như vầy:

  1. Dānaṃ nāma sukhādīnaṃ nidānaṃ paramaṃ mataṃ  dibbānaṃ, pana bhogānaṃ patiṭṭhāti pavuccatī.

Dāna nên ược hiểu là nguyên nhân cao quý ể em lại hạnh phúc ở cõi người, cõi trời và Niết bàn. Nó ược xem là nền tảng cho những thú vui ở cõi chư thiên.

“Bắt ầu bằng những lời này, bài pháp thoại khả ái về sự thực hành bố thí  (dānakathā) ược ban ra.”

  1. Sīlaṃ nām etaṃ idhaloka-paraloka sampatīnaṃ mūlaṃ.

Sīla là nguồn gốc của mọi hình thức thịnh vượng ở ời này và ời sau.

Bằng cách này và nhiều cách khác, bài pháp thoại về giới (sīlakathā) ược nói ra một cách chi tiết.

  1. Tiếp theo, Đức Phật Dīpaṅkarā thuyết giảng về các chỗ ngụ chư thiên (Saggakathā) ể giải thích về giới dẫn ến hạnh phúc ở cõi chư thiên. “Cõi chư thiên khả ái, khả lạc, khả hỉ và thật sự hạnh phúc. Cõi chư thiên này em lại sự vui sướng và hoan hỷ miên viễn. Chư thiên ở cõi Tứ ại thiên vương (Catumahārājika deva) hưởng hạnh phúc suốt chín triệu năm theo cách tính của loài người.” Nhân ây, Đức Phật thuyết giảng sự thành ạt hạnh phúc của chư thiên.
  2. Sau khi khiến mọi người khởi tâm tịnh tín và hưng phấn bằng pháp thọai này ể họ có sự vui thích trong sự thực hành bố thí và trì giới, Đức Phật tiếp tục giảng dạy rằng ngay cả hạnh phúc của chư thiên cũng không vĩnh hằng, cho nên ta không nên quá tham luyến nó. Bằng cách này, Đức Phật chỉ ra những iều bất lợi, tánh bất tịnh và tánh chất không xứng áng của các dục lạc, ồng thời Ngài cũng dạy những lợi ích từ sự xả ly chúng. Ngài kết thúc thời thuyết giảng bằng bài pháp thoại về Niết bàn bất tử.

Qua pháp thoại này, Đức Phật ã tiếp ộ toàn thể hội chúng tham dự thính pháp, một số ược an trú trong Tam quy, một số trong Ngũ giới, số khác chứng quả Nhập lưu (Sotāpatti-phala), Nhất lai (Sakadāgāmi-phala), Bất lai (Anāgāmi-phala) và một số an trú trong A-la-hán ạo quả (Arahatta-phala). Một số ược an trú trong Tam minh, số thì an trú trong Lục thông và số khác an trú trong Bát thiền.

Rồi Đức Phật rời khỏi thành Rammavati và trở về tịnh xá Sudassana.

Ba Thắng thời thuyết pháp của Đức Phật Dīpankāra (Dhammābhisamaya)

Sau khi trải qua bốn mươi chín ngày quanh khu vực của ại thọ Bồ ề, Đức Phật Dīpaṅkarā thuyết giảng bài pháp ầu tiên - Chuyển pháp luân kinh trong khu rừng Sunandārāma theo lời thỉnh cầu của Đại Phạm thiên và ã ban phát Diệu pháp, nước bất tử ến một ngàn triệu chư thiên và nhân loại.

(Đây là Dhammābhisamaya thứ nhất)

Tiếp theo, khi biết rằng con trai của Ngài là hoàng tử Usabhakkhandha có trí tuệ ã thành thục, Đức Phật Dīpaṅkarā bèn thuyết pháp và ban phát Diệu pháp, nước bất tử, ến chín trăm triệu chư thiên và nhân loại (cũng như Đức Phật của chúng ta ã thuyết bài kinh Cūla Rahulovāda và an trú cho hoàng tử Rāhula trong quả thánh A-la-hán).

(Đây là Dhammābhisamaya thứ hai)

Cuối cùng, sau khi ã thắng phục các ngoại ạo sư gần cây Sirīsa tại cổng thành Rammavati và thị hiện Song thông gồm nước và lửa, Đức Phật ã thuyết giảng Tạng A-tỳ-àm (Abhidhamma) khi ang ngồi trên tảng á Paṇḍukambala dưới cội cây Pāricchattaka ở cung trời Đao lợi thiên (Tāvatiṃsa), và ã ban phát Diệu pháp, nước bất tử, ến chín trăm triệu chư thiên và nhân loại dẫn ầu là vị thiên mà trong kiếp trước của ngài, là mẹ của Đức Phật.

(Đây là Dhammābhisamaya thứ ba).

Ba kỳ ại hội Thánh Tăng – Sannipāta 

Có ba trường hợp ại hội của chư Thinh văn ệ tử của Đức Phật Nhiên Đăng, một là ở khu rừng Sunandārāma, ở ó các vị A-la-hán từ khắp các miền ến dự hội, số lượng lên ến một ngàn triệu vị.

(Đây là Sannipāta thứ nhất)

Tiếp theo là kỳ họp của các vị Thanh văn ệ tử diễn ra tại núi Nārada. Một lần nọ, trong khi ang trên ường du hành hóa ộ chúng sanh cùng với bốn trăm ngàn vị tỳ khưu, Đức Phật Dīpaṅkarā ã ến tại ngọn núi xinh ẹp Nārada - nơi có ầy ủ những ặc tánh kỳ diệu.

Ngọn núi này do một vị Dạ xoa tên là Nāradeva chiếm cứ và hằng năm dân chúng thường em người ến tế lễ.

Thấy rằng dân chúng cần ược tế ộ vì những phước báu của họ trong quá khứ, Đức Phật bỏ lại chúng tỳ khưu rồi một mình i lên ngọn núi ấy. Dạ xoa nổi giận và làm cho ngọn núi rung chuyển ể dọa Đức Phật bỏ i. Khi thấy Đức Phật vẫn bình thản uy nghiêm dù ã dùng ủ cách ể dọa dẫm Ngài, vị ấy tự nghĩ rằng: “Vị ại Sa-môn này quả thật phi thường! Vị ấy quả thật hùng mạnh! Quả của những iều ác mà ta ã làm sẽ dội trở lại với ta. Không có chỗ nương tựa nào khác dành cho ta ngoài vị ại Sa-môn này, như một người bị trượt té trên ất phải nương vào chính chỗ ó mà ứng dậy, giờ ây ta sẽ quy y với vị Sa-môn này.”

Với ý nghĩ này, dạ xoa dập ầu dưới chân Đức Phật, hai lòng bàn chân của Ngài có một trăm lẻ tám hảo tướng, rồi dạ xoa sám hối và xin quy y với Ngài. Đức Phật ban bài thoại Dānakathā, Sīlakathā, v.v... theo tuần tự. Cuối thời pháp của Ngài, Naradeva và tùy tùng gồm mười ngàn dạ xoa ều ược an trú trong quả thánh Nhập lưu.

Vào ngày Naradeva chứng Nhập lưu thánh quả, dân chúng từ khắp xứ Jambudīpa, mỗi làng em ến một người ể tế lễ dạ xoa. Họ cũng mang theo những lượng lớn dầu mè, gạo, các loại ậu, bơ, sữa, mật ong, mật ường, v.v.... Naradeva ã trả lại tất cả thực phẩm cúng tế cho chủ của chúng, còn những người là vật tế thì vị ấy dâng ến Đức Phật.

Rồi Đức Phật truyền phép xuất gia ‘Thiện lai tỳ khưu – Ehi- bhikkhu’ cho những người này và giúp họ chứng ạt ạo quả A-la-hán trong vòng bảy ngày. Vào ngày rằm tháng giêng (Magha), giữa hội chúng gồm một ngàn triệu vị A-la-hán, Đức Phật ban lời giáo huấn về Pāṭimokkha ến hội chúng Thánh Tăng có bốn ặc iểm.

Vị Ehi-bhikkhu không cần phải kiếm y, bát, v.v... ể trở thành vị Sa-môn, khi ược Đức Phật gọi câu “Hãy ến, này tỳ khưu” thì tướng mạo cư sĩ của vị này biến mất, vị này tự nhiên có tướng mạo của vị samôn chửng chạc, sáu mươi hạ tỳ khưu.

Bốn ặc iểm là:

  1. Tất cả những người tham dự ều là những vị thiện lai tỳ khưu;
  2. Tất cả những vị tham dự ều có Lục thông;
  3. Tất cả những vị tham dự ều ến mà không cần ến sự triệu gọi của Đức Phật.
  4. Đại hội diễn ra vào ngày rằm, ngày lễ Uposattha.

(Đây là Sannipāta lần thứ hai)

Một dạo nọ, Đức Phật Dīpaṅkarā an cư kiết hạ ở núi Sudassana. Khi mùa an cư ã qua, dân chúng của xứ Diêm phù ề (Jambudīpa) i ến núi ể tổ chức lễ hội hằng năm. Tình cờ họ gặp Đức Phật, nghe Ngài thuyết pháp và ầy hoan hỷ họ xuất gia trở thành những vị Samôn. Khi Đức Phật thuyết pháp cho họ một lần nữa vào ngày Đại tự tứ (Mahā pavāranā) (trăng tròn tháng Assayuja - tháng 9)  thì các tỳ khưu mới xuất gia ều chứng ắc ạo quả A-la-hán, qua các giai oạn của Tuệ quán và Đạo là quả của sự thiền quán của họ về các pháp hữu vi trong ba cõi. Đức Phật tổ chức lễ Tự tứ với chín trăm ngàn triệu vị A-la-hán.

(Đây là Sannipāta lần thứ ba)

Những bài pháp thông thường do Đức Phật Dīpaṅkarā thuyết, dẫn ến sự giác ngộ Tứ Diệu Đế cho vô số chúng sanh.

Lúc bấy giờ, giáo pháp hoàn toàn thanh tịnh của Đức Phật ã lan truyền khắp nơi. Vô số chúng sanh - nhân loại, chư thiên và Phạm thiên ã lãnh hội giáo pháp ấy. Giáo pháp toàn vẹn và hoàn hảo bởi những ân ức tương tự như vậy.

Đức Phật Dīpaṅkarā, bậc thông suốt Tam giới, luôn có bốn trăm ngàn vị A-la-hán Thanh văn ệ tử theo hầu - các Ngài là những bậc rất uy lực, có ầy ủ lục thông.

Trong suốt thời kỳ giáo pháp của Đức Phật Dīpaṅkarā, những người chết mà vẫn còn là bậc hữu học (sekkha) khi ang phấn ấu ể chứng ắc ạo quả A-la-hán nhưng không thành, tất cả ều bị xem thường.

Giáo pháp của Đức Phật Dīpaṅkarā phổ cập khắp thế gian và tiếp tục chói sáng chừng nào còn những vị A-la-hán, những bậc ã chiến thắng kẻ thù phiền não, vô nhiễm ối với các cảnh dục và ã thoát khỏi các pháp bất tịnh và các lậu hoặc.

Những chi tiết ặc biệt về Đức Phật Dīpankarā 

Nơi ản sanh của Đức Phật Dīpaṅkarā là thành phố Rammavatī.

Phụ vương là vua Sudeva và mẫu hậu là hoàng hậu Sumedhā. 

Hai ại ệ tử tay trái và tay mặt là trưởng lão Sumaṅgala và trưởng lão Tissa.

Thị giả là trưởng lão Sāgata.

Hai ại ệ tử nữ  là trưởng lão Ni Nandā và trưởng lão Ni Sunandā. Cây ại bồ ề là cây Pipphala.

Hai cận sự nam là Tapussa và Bhallika. Hai cận sự nữ là Sirimā và Soṇā.

Ngài cao tám mươi hắc tay. Ngài rực rỡ như cột lửa phát sáng, như cây ại sala ang ộ nở hoa.

(Lợi ích của những chi tiết ặc biệt này là - Nếu không có những chi tiết này thì người ta dễ hiểu lầm rằng Ngài là vị chư thiên, ma vương, dạ xoa hoặc Phạm thiên. Người ta có thể nghĩ rằng, ối với một vị thiên như vậy thì những sự kiện phi thường có xảy ra cũng không lạ lùng gì. Điều này sẽ dẫn ến quan niệm sai lầm là giáo pháp của Ngài không áng nghe. Như vậy sẽ không có sự Giác ngộ chân lý (sự chứng ạt giải thoát). Ngược lại, những chi tiết ặc biệt sẽ làm khởi sanh niềm tin chân chánh rằng: “Đây quả thật là một con người ầy hùng lực.” Với niềm tin như thế, chúng sanh sẽ lắng nghe Giáo pháp của Ngài và nhờ ó giác ngộ ược chân lý giải thoát luân hồi.)

Hào quang tự nhiên từ thân của Đức Phật Dīpaṅkarā tỏa rộng khắp các hướng, xa mười hai do tuần. Thọ mạng của Ngài là một trăm ngàn năm.

Thêm một chi tiết ặc biệt khác, ược nêu ra trong các bộ Chú giải nhưng không có trong chánh kinh.

Khi còn sống cuộc ời thế tục, Đức Phật Dīpaṅkarā có ba cung iện: Haṃsa, Koñca và Mayūra.

Ngài có ba trăm ngàn cung nữ. Chánh hậu là Padumā Devī, con trai là Usabhakkhandha. Thời gian trị vì của Bồ tát là mười ngàn năm.

Khi Ngài từ bỏ thế gian, Ngài ra i bằng voi. Khi  thành Phật, Ngài sống ở khu vườn Nandārāma.

Sống trải qua thời gian dài như vậy, Đức Phật ã cứu ộ cho vô số chúng sanh thoát khỏi au khổ.

Sau khi ã làm cho ba phần của Giáo pháp như pháp Học (Pariyatti), pháp Hành (Patipatti) và pháp Thông ạt (Pativedha) chiếu sáng khắp thế gian, và sau khi ã giải thoát cho vô số chúng sanh, Đức Phật Dīpaṅkarā và chúng Thinh văn ệ tử của Ngài cuối cùng cũng viên tịch Đại Niết bàn, như ngọn lửa lớn chợt tắt sau khi ã chiếu sáng rực rỡ khắp mười phương.

Quán về Vô thường, v.v… ( Saṃvega )

Sự chói sáng của Đức Phật Dīpaṅkarā, những tướng hảo của hai bàn chân, và hội chúng của Ngài gồm bốn trăm ngàn vị Thánh thanh văn ệ tử -  tất cả ều là những vị A-la-hán - Tất cả ều diệt mất. Ôi, tất cả pháp hữu vi ều vô thường! Chúng quả thật là vô ngã!

Sự xây dựng bảo tháp

Như vậy Đức Phật Dīpaṅkarā, bậc ã thông ạt Tứ Thánh Đế, cuối cùng ã viên tịch ại Niết bàn tại khu vườn Nandārāma. Cũng trong khu vườn ấy, ngôi bảo tháp (cetiya) ã ược dựng lên, cao ba mươi do tuần, dành cho Đức Phật Nhiên Đăng, Dīpaṅkarā - Xá lợi của Ngài ược tôn trí trong ó. Dân chúng khắp xứ Diêm phù ề ã kéo ến ể óng góp vào việc xây dựng bảo tháp bằng bảy loại ngọc.

Chấm dứt lịch sử Đức Phật Nhiên Đăng -  

Dīpaṅkarā Buddhavaṃsa

]œ

       2. Koṇḍañña Buddhavaṁsa                   (Lịch sử Đức Phật Kiều Trần Như) 

Kiếp mà Đức Phật Dīpaṅkarā xuất hiện cuối cùng ã kết thúc. Khi A-tăng-kỳ kiếp (asaṅkheyya) ã trôi qua, sau ó một kiếp mới Đức Phật Kiều Trần Như, Koṇḍañña xuất hiện.

(Dù A-tăng-kỳ là con số không thể tính ếm ược, thời gian giữa Đức Phật Nhiên Đăng và Đức Phật Kiều Trần Như, gọi là Buddhantara-asaṅkheyya ược hiểu là khoảng thời gian giữa hai vị Phật).

Đây là cách mà Đức Phật Koṇḍañña xuất hiện: Sau khi ã thành tựu viên mãn các pháp Ba-la-mật trải qua 60 asaṅkheyya (A-tăng-kỳ) và một trăm ngàn ại kiếp và ang thọ hưởng cuộc sống ở cung trời Đâu Suất (Tusitā), là truyền thống của chư vị Bồ tát. Khi ược chư thiên thỉnh cầu giáng sanh cõi người ể thành Phật, Ngài ã giáng trần thọ sanh vào lòng của hoàng hậu Sujātā trong hoàng cung của vua Sananda, kinh ô là Rammavati.

(Vào lúc Ngài giáng sanh, ba mươi hai hiện tượng kiết tường ã xảy ra).

Sau mười tháng, Bồ tát ản sanh. Vào lúc Ngài ản sanh, ba mươi hai hiện tượng kiết tường và những sự kiện kỳ diệu khác cũng xảy ra.

(Tất cả những iều này sẽ ược nói rõ khi chúng ta ến phần lịch sử của Đức Phật Gotama.)

Đời sống trong hoàng cung 

Bởi vì Bồ tát thuộc dòng họ Koṇḍañña nên Ngài có tên là Thái tử Koṇḍañña (Kiều Trần Như). Khi ến tuổi trưởng thành, Ngài thọ hưởng ời sống ế vương trong mười ngàn năm. Sống trong ba cung iện vàng khả ái nhất, là Suci, Suruci và Subha với chánh hậu tên Ruci Devī và ược hầu hạ, chăm sóc bởi ba trăm ngàn cung nữ và vũ nữ.

Sự xuất gia 

Trong khi thái tử Koṇḍañña ang sống như vậy thì hoàng hậu Ruci Devī hạ sanh một hoàng nam tên  Vijitasena. Khi trông thấy bốn iềm tướng: một người già, một người bịnh, một người chết và một vị samôn, Bồ tát từ bỏ thế gian, cỡi trên chiếc xe do bốn con tuấn mã kéo.

Sự xuất gia của Thái tử Koṇḍañña khiến cho một trăm triệu người theo gương Ngài xuất gia làm Sa-môn.

Bồ tát Koṇḍañña  cùng một trăm triệu Sa-môn thực hành pháp khổ hạnh. Vào ngày Ngài sắp thành ạo, Bồ tát ộ món cơm sữa do Yasodharā, con gái của vị trưởng giả ở ngôi làng Sunanda dâng cúng. Ngài trải qua suốt ngày trong rừng cây Sala của ngôi làng ấy, và ến chiều Ngài bỏ lại tất cả những vị Sa-môn tùy tùng, một mình i ến cây bồ ề. Trên ường i, Ngài nhận tám nắm cỏ do một người dị giáo tên Sunanda dâng cúng, và ngay khi vừa trải xong mớ cỏ dưới cội cây Salakalyāni thì Vô ịch bảo tọa (Aparājita Pallaṇka), cao năm mươi bảy hắc tay xuất hiện.

Sự thành ạo 

Ngồi kiết già trên bảo tọa, Bồ tát thể hiện tinh tấn ở bốn mức ộ và chiến thắng Ma vương cùng với ông ảo binh ma. Ngài chứng Túc mạng thông (Pubbenivāsa ñāṇa) trong canh ầu và Thiên nhãn thông (Dibbacakkhu ñāṇa) trong canh giữa. Trong canh cuối Ngài quán pháp Duyên khởi (Paticcasamuppāda) theo thứ tự xuôi và ngược. Sau ó Ngài nhập vào tứ thiền qua phép niệm Hơi thở (Ānāpāna), xuất khỏi tứ thiền và trong khi quán về Ngũ uẩn, Ngài phân biệt rõ năm mươi ặc tánh liên quan ến sự sanh và diệt của các uẩn và phát triển Tuệ minh sát (Vipassanā)  ến Chuyển tộc tuệ (Gotrabhū ñāṇa), chứng ắc A-la-hán ạo tuệ (Arahatta-magga ñāṇa) và thông ạt tất cả mọi ân ức của một vị Phật. Ngài chứng Phật quả tối thượng vào lúc mặt trời vừa mọc.

           Ba Thắng thời thuyết pháp của Đức Phật Koṇḍañña                                 Dhammābhisamaya

Sau khi chứng ắc Phật quả, Đức Phật trải qua bốn mươi chín ngày trong bảy chỗ quanh khu vực của cây bồ ề, mỗi chỗ bảy ngày. Trong tuần lễ thứ tám, Ngài nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên ể thuyết pháp ộ sanh và suy xét ai sẽ ược tiếp ộ trước nhất. Ngài nhớ ến một trăm triệu Sa-môn ã theo Ngài xuất gia và suy xét về chỗ ở của họ, thấy rằng họ ang ngụ ở khu rừng Devavana, Thiên lâm, của thị trấn Arudhavati, cách cây bồ ề mười tám do tuần. Ngài em theo y bát và vận dụng thần thông i ến chỗ của họ.

Nhìn thấy Đức Phật Koṇḍañña từ xa ến, với lòng ầy niềm tịnh tín, một trăm triệu Sa-môn ã ón tiếp Ngài hết mực tôn kính, ỡ lấy y bát của Ngài, sắp xếp chỗ ngồi và cung kính làm lễ Ngài. Sau ó họ ngồi xuống nơi thích hợp, vây quanh Đức Phật.

Đức Phật thuyết bài kinh Chuyển pháp luân (Dhammacakkapavattana Sutta), theo qui luật tất cả chư Phật quá khứ ều làm như vậy.

Đức Phật Koṇḍañña có oai lực vô lượng; có tùy tùng và danh tiếng vô song; có vô số ân ức; tướng mạo của Ngài khiến những kẻ hống hách phải kinh sợ; có sự nhẫn nại như ại ịa; giới mạnh mẽ như nước trong ại dương, ịnh vững chắc như núi Tu-di; trí tuệ vô cùng như hư không bao la; luôn luôn chuyên tâm vào việc thuyết giảng Ngũ căn (indriya), Ngũ lực (bala), Thất bồ ề phần (bojjhaṅga), Bát chánh ạo phần (maggaṅga), Tứ Diệu Đế (sacca), là những pháp dẫn ến Giác ngộ, vì lợi ích cho ông ảo chúng sanh.

Trong thời pháp này, một ngàn triệu chư thiên và nhân loại, dẫn ầu là một trăm triệu vị tỳ khưu ều giác ngộ Tứ Thánh Đế.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ nhất mà trong ó Đức Phật thuyết Tứ Diệu Đế ến nhân loại, chư thiên và Phạm thiên).

(2) Vào một dịp khác, Đức Phật thuyết bài kinh Maṅgala Sutta giữa hội chúng ông ảo có chư thiên và Phạm thiên từ mười ngàn thế giới ến dự (với cơ thể tinh tế nên ủ chỗ cho họ trong vũ trụ). Tại ạo tràng này, một vị thiên ã nêu lên câu hỏi về các iều hạnh phúc, iều gì mang lại ời sống an lành. Để trả lời vị thiên ấy, Đức Phật thuyết bài kinh Maṅgala Sutta.

Trong thời pháp ấy, chín trăm ngàn triệu chư thiên và nhân loại chứng ắc ạo quả A-la-hán, những vị chứng ạt những quả Thánh thấp hơn thì vô số.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ hai của Đức Phật về Tứ Diệu Đế ến nhân loại, chư thiên và Phạm thiên).

Sau khi thắng phục các ngoại ạo sư, Đức Phật thị hiện Song thông gồm nước và lửa khi ang ứng giữa hư không, Ngài thuyết pháp khiến tám trăm ngàn triệu nhân loại, chư thiên và Phạm thiên ều chứng ắc ạo quả A-la-hán. Những vị ược an trú trong các tầng Thánh thấp hơn thì vô số.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ ba của Đức Phật về Tứ Diệu Đế ến nhân loại, chư thiên và Phạm thiên).

Ba kỳ Đại hội Thánh Tăng - Sannipāta 

Cũng có ba kỳ ại hội, là những cuộc hội họp của những vị Thinh văn ệ tử của Đức Phật Koṇḍañña.

Kỳ ại hội thứ nhất diễn ra ở khu rừng Canda, Candavati là thành phố bảo hộ Đức Phật khi Ngài an cư kiết hạ lần ầu tiên sau khi thông ạt Tứ Thánh ế, chứng ắc Phật quả.

Trong thành phố ấy có hai chàng trai, một là Bhadda - con trai của Sucindhara, và thứ hai là Subhadda - con trai của Yasodhara; cha của họ ều thuộc dòng dõi gia ình Bà-la-môn rất giàu có. Khi nghe Đức Phật Koṇḍañña thuyết pháp, kết quả hai chàng thanh niên ã phát triển tâm tịnh tín cùng với mười ngàn chàng trai khác xuất gia trước Đức Phật và chứng ắc ạo quả A-la-hán. Ở ó, hội chúng gồm một ngàn triệu vị A-la-hán, dẫn ầu là trưởng lão Subhadda. Đức Phật ã tụng Pāṭimokkha vào ngày rằm tháng năm (Jettha).

(Đây là Sannipāta lần thứ nhất)

Một thời gian sau, con trai của Đức Phật - hoàng tử Vijitasena, sau khi trở thành vị tỳ khưu ã chứng ắc ạo quả A-la-hán. Đức Phật tụng Pāṭimokkha giữa hội chúng gồm một ngàn triệu vị A-la-hán do trưởng lão Vijitasena dẫn ầu.

(Đây là Sannipāta lần thứ hai)

Cuối cùng, vào một dịp khác khi ang du hành về quê hương, Đức Phật Koṇḍañña ã truyền phép xuất gia cho ức vua Udena và tùy tùng của vị ấy. Khi tất cả họ ều chứng ắc ạo quả A-la-hán, Đức Phật cùng chín trăm triệu vị A-la-hán, dẫn ầu là trưởng lão Udena, ã tụng Pāṭimokkha.

(Đây là Sannipāta lần thứ ba)

Đức Phật Koṇḍañña- Kiều Trần Như thọ ký cho Chuyển luân vương Vijitāvī, tức Bồ tát Gotama 

Lúc bấy giờ Bồ tát Gotama của chúng ta là Chuyển luân vương tên là Vijitāvī, trị vì ở kinh ô Candavati, có ông ảo tùy tùng xuất sắc, vị ấy nắm quyền cai trị toàn thể các dãy ất trên thế giới ến tận cùng bốn ại dương bằng ạo lý chân chánh, không bằng vũ lực hay khí giới.

Đức Phật Koṇḍañña khi ang trên ường du hành cùng với chúng ệ tử gồm một ngàn triệu vị A-la-hán, ã ến thành phố Candavatī. Nghe tin Đức Phật ã ến kinh ô, ức vua Vijitāvī tiếp ón Ngài một cách nồng hậu, sắp xếp chỗ ngụ cho Ngài, mời Ngài và chúng ệ tử ến ộ thực vào ngày hôm sau. Vào ngày hôm sau, nhà vua cho sửa soạn vật thực thích hợp và tổ chức lễ cúng dường vật thực rất công phu.

Sau khi ộ thực xong, Đức Phật ban pháp thọai ể tán dương sự bố thí cúng dường. Cuối thời pháp, ức vua nói lời thỉnh cầu: “Cầu xin chư ại ức Tăng hãy an cư kiết hạ tại thành phố này ể ban ân huệ cho bá tánh.” Và vị ấy ã tổ chức những cuộc lễ vô song thí ến chúng tỳ khưu có Đức Phật chủ tọa, trong suốt mùa an cư.

Rồi Đức Phật Koṇḍañña công bố lời tiên tri: “Sau ba và một trăm ngàn ại kiếp kể từ bây giờ, ại vương nhất ịnh sẽ thành Phật.” (Lời tiên tri giống như lời tiên tri của Đức Phật Nhiên Đăng ược nêu ra ầy ủ chi tiết trong kinh tạng Pāḷi, ề cập về sự thực hành khổ hạnh và những sự kiện khác; nhưng không ược nhắc lại ở ây vì  ã ược nêu ra trong câu chuyện về ẩn sĩ Sumedha.)

Sau khi ã công bố lời tiên tri, Đức Phật Koṇḍañña  tiếp tục thuyết pháp. Khi nghe xong thời pháp, niềm tin của ức vua ối với Đức Phật tăng trưởng mạnh mẽ và vì muốn thành ạt ạo quả Phật, ức vua cúng dường toàn thể vương quốc rộng lớn ến Đức Phật và xuất gia sa-môn trước mặt Ngài. Sau khi ã thông suốt Tam tạng, vị ấy chứng Bát thiền và Ngũ thông. Nhờ vậy khi thân họai mạng chung, Bồ tát tái sanh về cõi Phạm thiên.

Những chi tiết ặc biệt về Đức Phật Koṇḍañña Nơi ản sanh của Đức Phật Koṇḍañña là thành phố Rammavatī, 

Phụ vương là vua Sunanda, và mẫu hậu là hoàng hậu Sujātā.

Hai ại ệ tử là trưởng lão Bhadda và trưởng lão Subhadda. 

Thị giả là trưởng lão Anuruddha.

Hai ại ệ tử nữ là trưởng lão Ni Tissā và trưởng lão Ni Upatissā.

Cây Bồ ề giác ngộ là cây Sālakalyāni.

Hai cận sự nam là Soṇa và Upasoṇa. Hai cận sự nữ là Nandā và Sirimā. 

Thân của Ngài cao tám mươi tám hắc tay và chiếu sáng như trăng rằm hoặc như mặt trời giữa trưa.

Thọ mạng của Ngài lúc bấy giờ là một trăm ngàn năm và suốt thời gian dài ấy Ngài cứu ộ vô số chúng sanh gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên, ưa họ ra khỏi những cơn lũ của luân hồi và ặt họ lên miền Niết bàn tịch tịnh.

Đức Phật Koṇḍañña khi còn ở thế tục, Ngài có ba cung iện bằng vàng: Suci, Suruci và Subha. Ngài có ba trăm ngàn cung nữ. Chánh hậu tên Rucī và con trai là Vijitasena. Ngài trị vì trong mười ngàn năm.

Ngài i xuất gia bằng xe tuấn mã. Ngài ngụ ở khu vườn Candārāma khi thành Phật.

Trong thời kỳ giáo pháp của Đức Phật Koṇḍañña, quả ất ầy bóng y vàng của những vị A-la-hán, những bậc ã oạn diệt các lậu hoặc, ã tẩy sạch các pháp ô nhiễm, sáng ngời như bầu trời quang ãng ầy trăng sao.

Các vị A-la-hán là những bậc cao quí nhất. Tâm của các Ngài không còn bị dao ộng bởi các pháp thăng trầm trong cuộc sống. Những kẻ hung dữ khó ến gần các Ngài. Khi những vị A-la-hán danh tiếng muốn viên tịch, các Ngài bay vào không trung, cao khoảng bảy cây thốt nốt (tựa như ánh chớp xẹt sáng giữa những ám mây en), các Ngài nhập thiền Kasina với ề mục lửa, rồi thân của các Ngài bốc lửa, phát sáng và các Ngài viên tịch giữa hư không.

Kinh cảm trí - Saṃvega 

Oai lực vô song của Đức Phật Koṇḍañña và tâm kiên ịnh thông ạt Nhất thiết trí của Ngài, tất cả ều diệt mất. Các pháp hữu vi quả thật vô ngã, không bền vững!

Bảo tháp 

Đức Phật Koṇḍañña, bậc giác ngộ hoàn toàn Tứ Diệu Đế, ã viên tịch ại Niết bàn tại khu vườn Candārāma. Cũng trong khu vườn ấy, ngôi bảo tháp cao bảy do tuần ược dựng lên dành cho Ngài.

Xá lợi không thể tan vỡ của Đức Phật úng với bản chất của các ấng Giác Ngộ có thọ mạng lâu dài, rắn chắc như những pho tượng vàng, không bị vỡ vụn. Những viên Xá lợi này ược tôn trí trong bảo tháp và dân chúng khắp nơi của xứ Diêm phù ề ã hoàn thành công việc trang trí bảo tháp với bảy loại á quí.

Chấm dứt lịch sử Đức Phật Kiều Trần Như  -

 Koṇḍañña Buddhavaṃsa

]œ

  3. Maṅgala Buddhavaṁsa   (Lịch sử Đức Phật Ma-gia-la) 

 

Khi vô số ại kiếp ã trôi qua sau ại kiếp của Đức Phật Koṇḍañña, ến một kiếp nọ có xuất hiện lần lượt bốn vị Phật, ó là (1) Maṅgala, (2) Sumana, (3) Revata và (4) Sobhita. Vị Phật ầu tiên trong bốn vị Phật này là Đức Phật Maṅgala.

Sự thọ sanh 

Sau khi ã thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật trong mười sáu A-tăng-kỳ và một trăm ngàn ại kiếp, Bồ tát Maṅgala tái sanh vào cung trời Đâu suất à (Tusitā) theo thông lệ của tất cả chư Phật ương lai.

Khi ang thọ hưởng ời sống của chư thiên, Ngài chấp nhận lời thỉnh cầu của chư thiên, giáng sanh xuống cõi nhân loại và thọ sanh vào lòng của Uttarā, hoàng hậu của vua Uttara, trong kinh ô Uttara.

Thân phát sáng của người mẹ 

Từ lúc Bồ tát thọ sanh, ánh sáng từ thân của hoàng hậu phát ra tám hắc tay khắp quanh, vượt trội cả ánh sáng của mặt trời và mặt trăng. Không cần ến bất cứ loại ánh sáng nào khác, hoàng hậu cùng tùy tùng di chuyển bằng chính ánh sáng của bà.

Bồ tát ản sanh 

Chư thiên bảo vệ thai bào Bồ tát, khi mười tháng trôi qua, Bồ tát ản sanh trong khu vườn Uttaramadhura xinh ẹp và thù thắng.

Đời sống ế vương 

Khi Bồ tát Maṅgala ến tuổi trưởng thành, Ngài bước lên ngai vàng, sống trong ba cung iện - cung iện Yasavanta nổi tiếng, cung iện Rucimanta khả ái và cung iện Sirimanta lộng lẫy  - cùng với chánh hậu Yasavatī với ba mươi ngàn nữ tỳ trang iểm lộng lẫy vây quanh. Như thế, Bồ tát thọ hưởng phú quý xa hoa như những khoái lạc ở cõi chư thiên trong chín ngàn năm 

Sự xuất gia 

Khi hoàng hậu Yasavatī hạ sanh hoàng tử tên là Sīlava, Bồ tát thấy bốn iềm tướng: một người già, một người bịnh, một người chết và một vị Sa-môn; Ngài bèn từ bỏ thế gian, ra i với con tuấn mã Pandara và trở thành vị Sa-môn.

Ba mươi triệu người theo gương Ngài ều xuất gia Sa-môn.

Cùng với ba chục triệu vị Sa-môn này, Bồ tát Maṅgala thực hành pháp khổ hạnh (dukkaracariyā) trong tám tháng. Vào ngày rằm tháng tư (Vesākha) khi sắp thành ạo, Ngài ộ món cơm sữa do Uttarā, con gái của một vị trưởng giả ở ngôi làng Uttara dâng cúng. Sau khi trải qua suốt ngày trong rừng cây sa-la, Ngài rời bỏ chúng Sa-môn và một mình i ến cây ại bồ ề vào lúc chiều tối. Trên ường i Ngài nhận tám nắm cỏ do một người dị giáo tên Uttara dâng cúng.

Ngay khi vừa rải mớ cỏ dưới cội cây bồ ề tên Nāga thì Vô ịch bảo tọa (Aparajita) cao năm mươi tám hắc tay hiện ra.

Sự thành ạo 

Ngồi kiết già trên bảo tọa, Bồ tát thể hiện tinh tấn ở bốn mức ộ và chiến thắng Ma-vương cùng ông ảo binh ma. Rồi Ngài chứng Túc mạng thông (Pubbenivasa ñāṇa) trong canh ầu và Thiên nhãn thông (Dibbacakkhu ñāṇa)  trong canh giữa. Trong canh cuối Ngài quán pháp Duyên (Paticcassamuppāda) khởi theo thứ tự xuôi và ngược. Sau ó Ngài nhập vào Tứ thiền qua pháp niệm Hơi thở (Ānāpāna); xuất khỏi Tứ thiền và quán về Ngũ uẩn, Ngài nhận biết rõ năm mươi ặc tánh liên quan ến sự sanh và diệt của các uẩn và phát triển tuệ Minh sát (Vipassanā) ến Chuyển tộc tuệ (Gotrabhu ñāṇa), chứng ắc A-la-hán ạo tuệ (Arahatta-magga ñāṇa) và thông ạt tất cả mọi ân ức của một vị Phật. Ngài chứng ắc Phật quả tối thượng vào lúc mặt trời vừa mọc.

Hào quang cực kỳ sáng chói của thân 

Hào quang của Đức Phật Maṇgala phát ra mạnh mẽ hơn hào quang của những vị Phật khác. Hào quang của những vị Phật khác phát ra một cách tự nhiên mà không có năng lực siêu nhiên chỉ xa khoảng tám mươi hắc tay hoặc một sãi tay. Nhưng hào quang của Đức Phật Maṅgala chiếu sáng cả êm lẫn ngày khắp mười ngàn thế giới. Do sáng chói như vậy, không chỉ tất cả những vật chung quanh như cây cối, ất ai, rừng núi, sông biển, v.v... ược chiếu sáng. Nhưng người ta nói rằng, ngay cả nồi chảo bị dính bụi và bám khói en cũng ược chiếu sáng tựa như chúng ược phủ bên ngoài một lớp vàng.

Thọ mạng của dân chúng trong thời kỳ của Đức Phật Maṅgala là chín chục ngàn năm, và trong suốt thời kỳ ấy mọi thứ ều có sắc vàng như vậy. Suốt thời kỳ giáo pháp của Ngài mặt trăng, mặt trời, các tinh tú ều không có ánh sáng. Vì không có ánh sáng của mặt trời nên người ta không thể phân biệt giữa ngày và êm. Tuy nhiên, dân chúng i lại làm việc bằng ánh sáng tỏa ra từ Đức Phật. Người ta phân biệt ngày và êm nhờ nghe tiếng chim hót báo hiệu một ngày mới và nhìn vào những loại hoa thường nở vào lúc chiều tối

Câu hỏi có thể ặt ra, phải chăng những vị Phật khác không có những năng lực như vậy? Câu trả lời là: Không phải thế. Thực ra, các Ngài ều có những năng lực như vậy. Các Ngài có thể tỏa hào quang chiếu khắp mười ngàn thế giới nếu các Ngài muốn. Các vị Phật khác có hào quang tự nhiên phát ra từ thân chỉ trong một sải tay, thì hào quang từ thân của Đức Phật Maṅgala luôn tỏa ra chiếu khắp mười ngàn thế giới mà không cần phải chủ tâm tạo ra, vì ó là kết quả của ước nguyện mà Ngài ã thực hiện trong kiếp quá khứ.

Ước nguyện của Bồ tát Maṅgala trong một kiếp quá khứ 

Khi Đức Phật Maṅgala còn là một vị Bồ tát trong một kiếp nọ giống như kiếp của Bồ tát Vessantara của chúng ta, Ngài sống với vợ và các con tại một nơi giống như Vaṅkapabbata.

Nghe tin Bồ tát bố thí rất rộng rãi, một vị dạ xoa nọ tên là Kharadāthika, giả dạng một Bà-la-môn i ến xin hai ứa con trai và con gái của Ngài.

Bồ tát trao con trai và con gái của Ngài cho vị Bà-la-môn một cách hoan hỷ nhất và ại ịa rộng hai trăm bốn chục ngàn gāvuta (gāvuta - league = 1 lý = 3 dặm = 4,8km) ã rùng mình rung chuyển.

Khi ang ứng tựa vào tấm ván bên con ường mòn, dạ xoa nuốt chửng hai ứa bé vào miệng và nhai chúng tựa như ang nhai những ngó sen, trong khi Bồ tát ứng nhìn chăm chú.

Khi nhìn như vậy, Ngài trông thấy máu tươi như những tia lửa phọt ra từ miệng của dạ xoa, nhưng chẳng chút sầu khổ nào khởi sanh trong Ngài. Thay vào ó, Ngài vô cùng hoan hỷ và hạnh phúc, nghĩ rằng “Đây là hành ộng bố thí tối thượng của ta.”

Rồi Bồ tát bày tỏ ước nguyện: “Do kết quả của hành ộng bố thí này, nguyện rằng trong tương lai thân của tôi sẽ phát ra những tia hào quang sáng rực như máu (từ miệng của dạ-xoa).” Cho nên ước nguyện ấy ã thành tựu vào lúc Ngài chứng ắc Phật quả, khiến hào quang sáng chói tự nhiên phát ra từ thân của Đức Phật Maṅgala chiếu khắp mười ngàn thế giới.

Ngoài ra, một ước nguyện khác ược Đức Phật Maṅgala  thực hiện trong một kiếp quá khứ  - một thời nọ khi Ngài còn là Bồ tát, Ngài có cơ hội cúng dường ến bảo tháp của một vị Phật quá khứ. Khi nghĩ rằng: “Ta sẽ hy sinh mạng sống của ta ến Đức Phật Chánh Biến Tri.” Ngài ắp vào người mảnh vải ã ược tẩm dầu. Ngài ổ ầy thục tô vào trong một cái bát bằng vàng, cái bát trị giá một trăm ngàn ồng tiền vàng. Trong cái bát vàng, Ngài thắp một ngàn cái tim bấc và ội bát lên ầu, Ngài ốt cháy cơ thể của mình và dành cả êm nhiễu quanh bảo tháp thiêng liêng.

Tuy Bồ tát ảnh lễ ến rạng sáng, sức nóng không thể chạm ến ngay cả một sợi lông trên thân của Ngài, cứ như Ngài ang ngự giữa hoa sen ang nở.  Quả thật vậy,  bản chất của Pháp luôn hộ trì, ngăn chặn mọi nguy hiểm cho người thực hành pháp. Do ó, Đức Phật dạy rằng: 

Dhammo have rakkhati dhammacārim Dhammo suciṇṇo sukhaṃ avahati esānisaṃsa dhamme suciṇṇe na duggatiṃ gacchati dhammacāri.

Cũng do kết quả của việc phước này mà hào quang tự nhiên từ thân của Đức Phật Maṅgala chiếu khắp mười ngàn thế giới.

Ba Thắng thời thuyết pháp của Đức Phật Maṅgala (Dhammābhisamaya)  

Sau khi thành ạo, Đức Phật Maṅgala trải qua bảy chỗ, mỗi nơi bảy ngày gần cây bồ ề. Rồi Ngài nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên thuyết pháp ộ sanh. Và khi quán xét xem sẽ thuyết pháp ến ai trước tiên, Ngài thấy ba chục triệu vị Sa-môn ã ắp y theo gương Ngài, các vị có nhân duyên ầy ủ (upanissaya) ể chứng ắc Đạo Quả.

Khi nghĩ rằng sẽ thuyết pháp ến họ trước tiên, Đức Phật cũng xem xét về chỗ ngụ của họ và thấy rằng họ ang ngụ ở trong khu rừng Sirivana, thuộc thành phố Sirivaddhana, cách cây ại thọ bồ ề tám mươi gāvuta. Đức Phật mang y bát và vận dụng thần thông lập tức bay ến khu rừng Sirivana.

Khi nhìn thấy Đức Phật ang tiến ến, ba chục triệu vị Sa-môn với tâm tịnh tín ã ân cần ón tiếp Ngài, ỡ lấy y và bát từ tay Ngài, sữa soạn chỗ ngồi cho Ngài rồi cung kính làm lễ. Khi tất cả mọi phận sự của họ ối với Đức Phật ã ược thực hiện xong, họ ngồi xuống ở nơi ngồi phải lẽ.

Đức Phật thuyết bài kinh Chuyển pháp luân theo úng thông lệ của nhiều ời chư Phật. Kết quả là ba chục triệu vị tỳ khưu chứng ắc ạo quả A-la-hán. Chư thiên và nhân loại con số lên ến một trăm ngàn người ược giác ngộ Tứ Diệu Đế (Họ ược giải thoát)

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ nhất)

Ngay trước khi Đức Phật thuyết giảng A-tỳ-àm, Ngài ang ngụ gần thành phố Citta, nơi Ngài ến khất thực. Như Đức Phật Gotama của chúng ta thị hiện Song thông gồm nước và lửa gần cây xoài của người làm vườn Kanda, gần cổng thành Sāvatthi, và ánh bại các ngoại ạo sư;  Đức Phật Maṅgala cũng thị hiện Song thông sau khi ánh bại các ngoại ạo sư ở cổng thành Citta. Rồi Ngài i ến cung trời Đao lợi thiên (Tāvasiṃsa), nơi ây Ngài ngồi trên tảng á cẩm thạch paṇḍukambala, dưới cội cây Paricchattaka và thuyết Tạng A-tỳàm ến chư thiên và Phạm thiên.

Lần thuyết pháp này có mười trăm ngàn triệu chư thiên và Phạm thiên giác ngộ Tứ Diệu Đế.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ hai) 

Trước khi Đức Phật Maṅgala xuất hiện, tại kinh ô Surabhi, nhà vua trị vì tên Sunanda, ã thực hiện các phận sự cần thiết ể họach ắc xe báu (một trong bảy báu vật của vị Chuyển luân vương). Sau khi ã thành tựu các phận sự, thì xe báu xuất hiện ến ức vua.

Khi Đức Phật Maṅgala xuất hiện thì xe báu trượt i khỏi chỗ của nó. Thấy vậy, vua Sunanda rất buồn phiền và hỏi các vị quan cố vấn: “Tại sao xe báu xuất hiện do năng lực phước báu của ta lại trượt khỏi chỗ của nó?”

Các vị Bà-la-môn áp lại:

“Tâu bệ hạ, xe báu trượt i vì mạng của vị Chuyển luân vương sắp kết thúc hoặc khi vị Chuyển luân vương trở thành vị Sa-môn, hay có Đức Phật xuất hiện.

“Chắc chắn bệ hạ không có sự kết thúc thọ mạng. Bệ hạ sẽ sống rất thọ.”

“Quả thật hiện giờ Đức Phật Maṅgala ã xuất hiện trong thế gian. Đó là lý do khiến xe báu của bệ hạ trượt i.”

Sau khi nghe câu trả lời của các vị Bà-la-môn, Chuyển luân vương cùng với tùy tùng bày tỏ sự tôn kính ến xe báu rồi nói lời yêu cầu như vầy “Hỡi xe báu, do oai lực của Đức Phật Maṅgala, ta sẽ ến ảnh lễ Ngài. Xe báu! Hãy khoan biến mất.” Rồi xe báu trở lại chỗ cũ của nó.

Đầy vui sướng, Chuyển luân vương Sunanda cùng với số tùy tùng ông ảo chiếm ến ba mươi gāvuta (4,8km x 30 = 144km) ,  i ến Đức Phật Maṅgala - Bậc em lại hạnh phúc, may mắn cho toàn thể thế gian. Đức vua cúng dường vật thực dồi dào ến Đức Phật và chúng Tăng. Nhà vua dâng y bằng vải lụa Kāsi ến một trăm ngàn vị A-lahán và tất cả những vật dụng cần thiết ến Đức Phật. Sau lễ bố thí, nhà vua và  hoàng tử Anurāja - con trai của Chuyển luân vương, ngồi ở nơi phải lẽ ể nghe Đức Phật thuyết pháp.

Đức Phật thuyết pháp tuần tự ến ại chúng do ức vua dẫn ầu. Sau thời pháp, ức vua và oàn tùy tùng gồm chín trăm triệu người, tất cả chứng ắc Đạo Quả A-la-hán cùng với bốn Tuệ phân tích.

Khi xem xét những việc phước mà họ ã làm trong kiếp quá khứ, Ngài thấy những thiện nghiệp quá khứ của họ sẽ hóa ra y bát cho họ mà không cần tìm kiếm. Thế nên, Đức Phật duỗi cánh tay phải và nói rằng: “Etha Bhikkhavo - Hãy ến, này các tỳ khưu!”. Ngay tức thì tất cả hội chúng ều trở thành Sa-môn, tóc trên ầu của họ ngắn lại chỉ còn hai lóng tay, trên người có y và bát và có tướng mạo của những vị ại trưởng lão ã trải qua một trăm hạ lạp. Và cuối cùng họ vây quanh Đức Phật.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ ba) 

Ba kỳ ại hội Thánh Tăng – Sannipāta   

Trong khi Đức Phật Maṅgala ang lưu trú ở thành phố Mekhala, thì hai ệ tử tương lai của Ngài - Sudeva và Dhammasena - mỗi người ều có một ngàn người bạn (theo Chú giải tiếng Sinhalese thì con số là mười ngàn), họ trở thành những vị thiện lai tỳ khưu trước Đức Phật. Khi họ chứng ắc Đạo Quả vào ngày rằm tháng giêng (Magha) thì Đức Phật ban lời chỉ giáo Ovāda Pātimokkha giữa hội chúng tỳ khưu gồm mười trăm ngàn triệu vị.

 (Đây là Sannipāta lần thứ nhất)

Lại nữa, Đức Phật cũng tụng Pātimokkha trong một Đại hội Thánh Tăng khác gồm mười ngàn triệu vị, tất cả ều ã xuất gia tại ại hội quyến thuộc của Đức Phật, diễn ra ở khu vườn Uttara.

 (Đây là Sannipāta lần thứ hai)

Giữa chín trăm triệu vị tỳ khưu tham dự ại hội, dẫn ầu là vị tỳ khưu trước kia là Chuyển luân vương Sunanda, Đức Phật ã tụng Pātimokkha.

  (Đây là Sannipāta lần thứ ba) 

Đức Phật Maṅgala thọ ký cho Bà-la-môn Suruci, tức Bồ tát Gotama  

Vào thời của Đức Phật Maṅgala, Bồ tát của chúng ta là vị Bà-lamôn Suruci, ở ngôi làng Suruci. Ngài thông thạo các bộ kinh Phệ à, bộ ngữ vựng (nighantu), tu từ học (ketubha), bộ văn phạm

(akkharapabheda) và bộ sử thi (itihāsa).

Ngài rất thông thạo về nghệ thuật viết và ọc thơ (padaka) cũng như văn xuôi (veyyākarana).

Ngài thông thạo về triết học thế gian, không liên quan ến những vấn ể tâm linh mà chỉ liên quan ến các công việc thế tục và cũng rành mạch khoa tướng học - biết rõ các tướng trên thân của bậc ại nhân.

Sau khi nghe bài pháp thoại của Đức Phật, Bà-la-môn Suruci khởi tâm tịnh tín và quy y Tam bảo. Rồi vị ấy thỉnh Đức Phật và chúng Tăng: “Xin thỉnh các Ngài ến nhà con thọ thực vào ngày mai.”

“Này Bà-la-môn, ngươi muốn thỉnh bao nhiêu vị tỳ khưu?” Đức Phật hỏi. “Bạch Đức Thế Tôn, có bao nhiêu vị tỳ khưu ạ?” “Có tất cả mười trăm ngàn triệu”. “Thế thì bạch Thế Tôn, con xin thỉnh tất cả. Xin hãy thọ lãnh lễ cúng dường vật thực của con.” Đức Phật im lặng nhận lời.

Sau khi thỉnh Phật và chúng Tăng, Bồ tát về nhà và suy nghĩ như vầy: “Về vật thực và y phục thì ta có thể bố thí ủ cho chừng ấy tỳ khưu. Nhưng làm sao có thể sắp xếp ủ chỗ ngồi cho các Ngài ây?”

Ý nghĩ của Bồ tát khiến chỗ ngồi của Sakka, vua của chư thiên, cao tám mươi bốn ngàn gāvuta ở trên núi Tu-di nóng lên.

Rồi Sakka suy xét: “Kẻ nào ã làm cho ta rời khỏi chỗ này?” Khi vị ấy tìm kiếm nguyên nhân thì trông thấy Bà-la-môn Suruci. Đế Thích suy nghĩ: “Vị Bồ tát này ã thỉnh chư Tăng, có Đức Phật dẫn ầu ến nhà thọ thực và ang lo lắng về chỗ ngồi và các tiện nghi khác. Ta sẽ  ến ó và tham dự một phần công ức.” Đế Thích hóa thành người thợ mộc với cây rìu trong tay và xuất hiện trước mặt Bồ tát. 

Người thợ mộc, tức Sakka, dò hỏi: “Có việc gì cho tôi làm không, thưa Ngài.” Trông thấy người thợ mộc, Bồ tát hỏi: “Ông có thể làm ược những gì?” “Không có việc gì mà tôi không biết làm. Nếu có ai muốn xây dựng nhà mát, cung iện hay bất cứ công trình xây dựng nào khác thì ó là công việc của tôi.” “Thế thì tôi có một số công việc dành cho ông ây.” “Việc gì thế?” “Tôi ã thỉnh mười trăm ngàn triệu vị tỳ khưu ến thọ thực vào ngày mai. Ông có thể dựng cho tôi một nhà mát ể ón tiếp các Ngài.” “Được, tôi có thể, miễn sao ông trả công cho tôi.” “Này ông bạn, ược thôi.” “Tốt lắm, tôi sẽ xây dựng nó úng với tiền công mà ông trả cho tôi.” Đoạn Đế Thích nhìn quanh ể tìm kiếm chỗ ất thích hợp.

Ngôi nhà châu báu mọc lên từ lòng ất 

Chỗ ất rộng mười hai gāvuta mà Đế Thích ã chọn trở nên bằng phẳng như ề mục Kasina. Rồi Đế Thích nhìn quanh và ước nguyện: “Xin cho nhà ại giải ốc bằng bảy loại châu báu, tráng lệ và xinh ẹp hiện ra từ lòng ất.” Và trong khi vị ấy nhìn vào ó thì ại giả ốc bằng bảy báu từ dưới ất trồi lên. Những cột trụ bằng vàng của nó có những cái bình ựng hoa sen bằng bạc; những cột trụ bằng bạc thì có những cái bình ựng hoa sen bằng vàng; những cột trụ bằng hồng ngọc có những cái bình ựng hoa sen bằng san-hô; những cột trụ bằng san hô thì có những cái bình ựng hoa sen bằng hồng ngọc; và những cột trụ bằng bảy báu thì có những cái bình hoa sen bằng bảy báu.

Nhân ó, Đế Thích nhìn vào ại giả ốc và ước nguyện: “Xin hãy xuất hiện những dãy chuông bằng vàng treo lơ lửng giữa cột này với cột kia.” Khi vị ấy ang nhìn thì những dãy chuông bằng vàng treo lơ lửng giữa cột trụ này với cột trụ kia xuất hiện. Những làn gió nhẹ lùa qua làm những cái chuông treo làm phát ra âm thanh nhẹ nhàng như âm thanh phát ra từ năm loại nhạc cụ mà chư thiên ở cõi trời biểu diễn trong buổi hòa nhạc.

Đế Thích tiếp tục ước nguyện: “Xin cho những chuỗi  vật thơm, những tràng hoa và những chuỗi lá ở cõi chư thiên hãy buông xuống.” Ngay khi ấy những chuỗi vật thơm, hoa và lá ở cõi chư thiên xuất hiện.

Lại nữa, vị ấy ước nguyện: “Xin cho những chỗ ngồi dành cho mười trăm ngàn triệu vị tỳ khưu, những tấm trải ắt giá và những cái ế ể bát, hãy từ ất mà hiện lên.” Ngay tức thì những thứ ấy xuất hiện.

Đế Thích ước nguyện tiếp: “Những cái chum khổng lồ ở mỗi góc hãy hiện ra.” Ngay tức thì những cái chum ựng nước khổng lồ xuất hiện.

Khi tất cả mọi thứ ã ược hình thành, Đế Thích i ến Bồ tát và nói rằng: “Nào, thưa ông Bà-la-môn, hãy nhìn xem giả ốc và hãy trả tiền úng mức cho tôi.” Bồ tát i ến giả ốc và toàn thân của Ngài tràn ngập năm loại hỷ lạc khi ngắm nhìn giả ốc.

Lễ Đại thí 

Khi Bồ tát ngắm nhìn ại giả ốc, Ngài chợt nghĩ: “Con người không thể làm ược ại giả ốc này. Do ước muốn thiện lành của ta là tổ chức một cuộc bố thí vĩ ại và những ức tánh của ta, chắc chắn chỗ ngồi của Đế Thích ã nóng lên. Sự nóng bức này ắt ã dẫn Đế Thích, vua của chư thiên, ến xây dựng ại giả ốc này. Có ược ại giả ốc như thế này mà ta bố thí cúng dường trong một ngày thì thật không thích hợp. Ta sẽ thực hiện cuộc bố thí cúng dường to lớn trong bảy ngày.” Rồi vị ấy ón tiếp chúng Tăng có Đức Phật dẫn ầu vào ại giả ốc trong bảy ngày và cúng dường ến các Ngài món cơm sữa ược nấu rất công phu.

Khi món cơm sữa ược dâng cúng, vì loài người không ủ khả năng ể phục vụ hết chúng Tăng. Do ó, bên cạnh mỗi người ều có một vị thiên tham dự vào công việc phục vụ. Một khu vực rộng mười hai hoặc mười ba gāvuta không ủ rộng ể chứa hết tất cả các vị tỳ khưu. Do ó, các Ngài phải vận dụng thần thông ể i vào chỗ ngồi của mình.

Sự cúng dường vật thực làm thuốc chữa bệnh và tam y 

Thời gian cúng dường vật thực ã qua, tất cả bình bát của các vị tỳ khưu ều ược rửa sạch. Bồ tát lại cúng dường vật thực làm thuốc chữa bịnh bằng cách bỏ ầy bát của các Ngài bơ, sữa, mật ong, mật ường và cũng cúng dường những bộ tam y ến các Ngài. Những bộ tam y ược dâng ến các vị tỳ khưu nhỏ hạ nhất trị giá một trăm ngàn ồng tiền vàng.

Đức Phật Maṅgala công bố lời tiên tri  

Khi Đức Phật Maṅgala ang ban thời pháp thọai ể tán dương về những vật thí ược cúng ược ến Ngài, bằng trí tuệ nhìn về tương lai, Đức Phật suy xét: “Người này ã thực hiện hành ộng bố thí vĩ ại, tương lai người ấy sẽ thành ạt quả gì?” Rồi Đức Phật thấy trước rằng, vị này nhất ịnh sẽ thành Phật tên là Gotama trong một hiền kiếp sau hai A-tăng-kỳ và một trăm ngàn ại kiếp kể từ hôm nay. Đức Phật gọi Bà-la-môn Suruci và nói lời tiên tri: “Khi hai A-tăng-kỳ và một trăm ngàn ại kiếp ã trôi qua, ngươi nhất ịnh sẽ thành Phật tên là Gotama.”

Nghe lời tiên tri của Đức Phật Maṅgala, Bồ tát phấn khởi và vui sướng, rồi chợt nghĩ: “Đức Phật ã tiên tri rằng ta chắc chắn sẽ thành Phật, vậy ời sống tại gia còn có ích gì ối với ta. Ta sẽ xuất gia ngay bây giờ.” Sau khi từ bỏ tài sản của một vị Bà-la-môn giàu có, tựa như nhổ nước bọt, Bồ tát xuất gia tỳ khưu dưới chân Đức Phật Maṅgala, thông thuộc Tam tạng kinh iển, chứng ắc Bát thiền và Ngũ thông.

Nhờ không bị hoại thiền nên sau khi thân họai mạng chung, Bồ tát tái sanh vào cõi Phạm thiên.

Những chi tiết ặc biệt về Đức Phật Maṅgala   

Nơi sanh của Đức Phật Maṅgala là Uttara.

Phụ vương là vua Uttara và mẹ là hoàng hậu Uttarā.

Hai ại ệ tử là Trưởng lão Sudeva và Dhammasena.

 Thị giả là Trưởng lão Pālita. 

Hai ại ệ tử nữ là trưởng lão Ni Sivalā và trưởng lão ni Asokā. Cây giác ngộ là cây Nāga.

Hai cận sự nam là trưởng giả Nanda và trưởng giả Visakha. Hai cận sự nữ là Anulā và Sutanā.

Đức Phật Maṅgala cao tám mươi tám hắc tay. Hào quang từ thân của Ngài luôn luôn chiếu sáng rực rỡ khắp mười ngàn thế giới, ôi khi chúng còn chiếu xa hơn mười ngàn thế giới, nghĩa là hằng trăm ngàn thế giới.

Thọ mạng của dân chúng trong thời của Ngài là chín mươi ngàn năm, và Đức Phật ã sống suốt thời gian ấy, tế ộ cho vô số chúng sanh gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên, ưa họ ra khỏi những cơn lũ của luân hồi và ặt họ lên miền ất Niết bàn tịch tịnh. 

Khi ở thế tục, Ngài sống trong ba cung iện bằng vàng: cung iện Yasavati, cung iện Rucimanta và cung iện Sirimanta. Ngài có ba chục ngàn cung nữ, chánh hậu là Yasavatī, con trai là Sīvala. Ngài trị vì trong chín ngàn năm.

Ngài i xuất gia bằng con tuấn mã Pandava. Ngài ngụ ở khu vườn Uttara sau khi thành ạo .

Như những con sóng ại dương không thể nào ếm ược, số Thanh văn ệ tử của Đức Phật Maṅgala cũng không thể nào ước lượng.

Suốt cuộc ời và thời kỳ giáo pháp của Đức Phật Maṅgala, Bậc chuyên chở cả ba loại chúng sanh ến Niết bàn, không hề có một vị Sa-môn nào chết mà vẫn còn ô nhiễm (tất cả ều là những vị A-la-hán và ã viên tịch khi hết thọ mạng).

Đức Phật Maṅgala có danh tiếng lớn và tùy tùng vô số kể, ã thắp lên ngọn èn Chánh pháp và ã cứu ộ hằng hà chúng sanh khỏi những cơn lũ của luân hồi ến bờ bên kia của Niết bàn tịch tịnh. Như một khối lửa khổng lồ rực sáng bị lịm tắt giống như mặt trời ã khuất bên kia bờ Tây - Đức Phật cũng vậy, ã viên tịch ại Niết bàn ể chúng sanh gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên thấy rằng các pháp hữu vi là vô thường, khổ và vô ngã.

Khi Đức Phật Maṅgala vừa viên tịch, thì hào quang từ thân của Ngài cũng biến mất, và toàn thể mười ngàn thế giới trở nên tối en.

Tiếng ta thán của chúng sanh vang dội khắp các thế giới.

Kinh cảm trí - Saṁvega 

Oai lực vô song và tâm an ịnh của Đức Phật Maṅgala, là tâm thông ạt Nhất thiết trí. Tất cả ều biến mất. Tất cả các pháp hữu vi quả thật vô dụng và không thực tánh!

                                  Bảo tháp 

Đức Phật Maṅgala, Bậc ã hoàn toàn giác ngộ Tứ Thánh ế, ã viên tịch Đại Niết bàn. Như vậy tại khu vườn Uttara (Uttara nghĩa là bậc nhất vì cây trong khu vườn ấy ra hoa và kết trái nhiều hơn các loại cây trong những khu vườn khác),  một bảo tháp cao ba mươi do tuần ã ược xây dựng ể cúng dường Đức Phật Maṅgala.

Xá lợi bất hoại của Đức Phật, úng với bản chất của những vị Chánh biến tri có thọ mạng lâu dài, vẫn rắn chắc như pho tượng không thể bị vỡ vụn. Những viên Xá lợi này ược tôn trí trong bảo tháp và dân chúng từ khắp nơi trong xứ Diêm phù ã hoàn thành công trình xây dựng bảo tháp bằng bảy loại á quí.

Kết thúc lịch sử Đức Phật Maṅgala - Maṅgala Buddhavaṃsa

]œ

 

                        4. Sumana Buddhavamsa                        (Lịch sử Đức Phật Sumana) 

Như vậy, Đức Phật Maṅgala với hào quang từ thân của Ngài trội hẳn, lấn át các loại hào quang của mặt trời, mặt trăng và các tinh tú, chư thiên và Phạm thiên khắp mười ngàn thế giới thuộc Sanh ản sát thổ (1) (Jatikhetta), không thể phân biệt giữa ban ngày và ban êm, và cuối cùng Ngài cũng ã viên tịch ại Niết bàn khiến trời ất tối en mù mịt.

Thọ mạng chín chục ngàn năm của loài người trong thời Đức Phật Maṅgala dần dần giảm còn mười năm; rồi thọ mạng lại tăng lên ến chín chục ngàn năm. Thời iểm này, Bồ tát Sumana sau khi ã thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật ã tái sanh vào cung trời Đâu suất (Tusitā), Ngài nhận lời thỉnh cầu của chư thiên và Phạm thiên giáng sanh xuống cõi nhân loại và thọ sanh vào lòng của bà Sirimā, hoàng hậu của vua Sudatta, kinh ô Mekhala.

(  Ba xứ liên quan ến Đức Phật là (i) Sanh ản sát thổ (Jāti khetta): mười ngàn thế giới rung chuyển vào lúc Ngài thọ sanh, ản sanh, Thành ạo, từ bỏ thọ hành và lúc viên tịch ại Niết bàn. (ii) Oai lệnh sát thổ (Ānā khetta): giáo pháp của Ngài lan truyền ến một trăm ngàn thế giới, và (iii) Cảnh (sở duyên) sát thổ (Visaya-khetta): vô lượng thế giới hình thành cảnh ể Nhất thiết trí của Ngài soi xét.)

Thời gian Đức Phật ược thọ thai, 32 hiện tượng kỳ diệu xuất hiện. Sau 10 tháng, ngày Đức Phật ản sanh, số hiện tượng kỳ diệu tương tự cũng xuất hiện và những hiện tượng này cũng xảy ra ối với tất cả các vị Bồ tát) 

Khi ến tuổi trưởng thành, thái tử Sumana vào ở trong ba cung iện bằng vàng: cung iện Canda, cung iện Sucanda và cung iện Vatamsa. Nơi này, Ngài thọ hưởng ời sống ế vương trong chín mươi ngàn năm cùng với chánh hậu là Vataṃsika ( ược hầu hạ bởi sáu triệu ba trăm ngàn cung nữ xinh ẹp)

Khi hoàng hậu Vataṃsika hạ sanh hoàng nam Anupama thì Bồ tát gặp bốn iềm tướng: một người già, một người bịnh, một người chết và một vị sa-môn. Ngài từ bỏ thế gian trong bộ y phục do chư thiên dâng tặng và cỡi trên con voi kiết tường. Ba trăm triệu người khác noi theo gương xuất gia của Ngài mà trở thành Sa-môn.

Bồ tát Sumana cùng với ba trăm triệu vị Sa-môn này i vào thực hành pháp khổ hạnh (dukkacarariyā), vào ngày rằm tháng tư (Vesākha). Sau khi ộ món cơm sữa do Anupamā, con gái của vị trưởng giả ở ngôi làng Anoma dâng cúng, Ngài trải qua một ngày trong rừng cây sala ở gần ó. Buổi chiều Ngài rời bỏ tùy tùng và một mình i ến cây bồ ề. Trên ường i Ngài nhận tám nắm cỏ do một người dị giáo tên Anupama dâng cúng, ngay khi Ngài trải mớ cỏ ấy dưới cội cây bồ ề thì Vô ịch bảo tọa cao ba mươi hắc tay xuất hiện.

Ngồi kiết già trên bảo tọa, Ngài chiến thắng Ma vương và ông ảo binh ma, chứng ngộ vô thượng Chánh ẳng giác, và ngâm bài kệ khải hoàn bắt ầu bằng câu Anekajātisaṃsarām mà mỗi vị Phật trong quá khứ luôn thốt lên.

        Ba Thắng thời thuyết pháp của Đức Phật Sumana 

                              (Dhammābhisamaya)

Sau khi chứng ắc Phật quả và trải qua bốn mươi chín ngày ở bảy chỗ quanh cây bồ ề, Đức Phật nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên và quán xét xem Ngài thuyết pháp tế ộ ai ầu tiên. Ngài thấy ba trăm triệu vị Sa-môn ã từng xuất gia chung với Ngài, người em khác mẹ là hoàng tử Sarana và chàng trai Bhavitatta, con trai của vị Purohita,  những người này có ầy ủ phước duyên ã ược gieo tạo trong quá khứ, có thể chứng ắc Đạo Quả và Niết bàn. Ngài nghĩ rằng: “Ta sẽ thuyết pháp ến họ trước.” Ngài xem xét về chỗ ở của họ và thấy rằng họ ang sống ở khu vườn Mekhala thuộc thành phố Mekhala, cách cây ại Bồ ề mười tám gāvuta. Đức Phật mang theo y bát i ến khu vườn Mekhala bằng con ường hư không.

Khi trông thấy Đức Phật Sumana ang tiến gần, ba trăm triệu vị Samôn với tâm ầy tịnh tín ã ón tiếp Ngài, thỉnh y và bát của Ngài, sửa soạn chỗ ngồi rồi trân trọng ảnh lễ Đức Phật. Khi tất cả phận sự ã ược thực hiện xong, họ ngồi xuống ở chỗ phải lẽ quanh Đức Phật.

Đức Phật bảo người làm vườn i gọi hoàng tử Sarana và chàng trai Bhavitatta, con trai của quốc sư Purohita. Rồi Ngài thuyết bài kinh Chuyển pháp luân ến hội chúng gồm hoàng tử Sarana và chàng trai Bhavitatta cùng với bảy trăm triệu tùy tùng của họ. Ba trăm triệu vị sa-môn ã xuất gia với Ngài cùng ông ảo chư thiên và nhân loại. Đây là bài pháp ầu tiên ược thuyết giảng bởi chư Phật quá khứ. Đức Phật Sumana ã thuyết bài kinh ấy như gióng lên tiếng trống Chánh pháp gồm chín thành phần, như trỗi lên tiếng tù và Tứ Diệu Đế.

Điều áng chú ý ở ây là: Sau khi chứng ắc Nhất thiết trí, Đức Phật Sumana muốn hoàn thành lời thỉnh cầu của Phạm thiên ể giải thoát chúng sanh gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên ra khỏi ngục tù của tam giới, và ể bảo vệ chúng sanh khỏi bị bọn cướp phiền não cướp i kho tàng công ức của họ, Ngài xây dựng thành phố Niết bàn bất tử với những bức tường thành là Giới (Silā), những hào lũy bao quanh là Định (Samādhi) và cổng thành là Tuệ quán (Vipassanā Ñāṇa), những cánh cửa Chánh niệm (Sati), những ngôi nhà lớn trong ó là Bát thiền (Samāpatti) và trú ngụ trong ó là những cư dân phạm hạnh với các pháp Trợ bồ ề (Bodhipakkhiya Dhamma)

Sau khi ã xây dựng thành phố Niết bàn, Đức Phật Sumana tạo ra một ại lộ thẳng tắp, xinh ẹp, rộng rãi và dài là Tứ niệm xứ (Satipaṭṭhāna). Ở bên kia ại lộ, Ngài tạo ra những dãy cửa hàng khả ái và an lạc là Pháp (Dhamma) ể những người muốn các vật báu là bốn Quả (Phala), bốn Tuệ phân tích (Patisambhidā Ñāṇa), tám tầng Thiền (Samāpatti) và Lục thông (Abhiññāna) có thể mua chúng tùy thích bằng những ồng tiền là chánh niệm (sati), tinh tấn (vīriya), tàm (hirī) và quý (ottapa). Sau khi ã xây dựng thành phố Pháp bảo và lập nên thị trường Dhamma, Đức Phật Sumana gióng lên tiếng trống Chánh pháp bằng cách thuyết bài pháp ầu tiên - bài Chuyển pháp luân kinh, và em lại sự giải thoát cho mười trăm ngàn triệu nhân loại, chư thiên và Phạm thiên.

   (Đây là Dhammābhisamaya lần ầu tiên)

Để nhiếp phục tánh ngã mạn của các ngoại ạo sư rất hống hách và có tà kiến tại xứ Sunandavati, Đức Phật Sumana ã thị hiện Song thông gồm nước và lửa ở gần cây xoài và ban bố Chánh pháp - nước bất tử, ến nhân loại, chư thiên và Phạm thiên. Khi ấy có một ngàn triệu chúng sanh giác ngộ Tứ Diệu Đế.

    (Đây là Dhammābhisamaya lần thứ hai) 

Vào một dịp khác, chư thiên và Phạm thiên từ mười ngàn thế giới ến gặp nhân loại, chư thiên và Phạm thiên ở thế giới này bàn về thiền Diệt Thọ Tưởng Định (Nirodha-samāpatti) - “Bằng cách nào người ta có thể nhập vào thiền Nirodha-samāpatti? Bằng cách nào  ắc ược thiền ấy? Bằng cách nào người ta có thể xuất khỏi thiền ấy?” Vì họ không thể giải ược những vấn ề như vậy, tất cả thấu ến chín cõi Phạm thiên ều khởi lên hoài nghi và tự chia thành hai nhóm. Cùng vua Arindama, chúa tể của loài người, họ i ến Đức Phật Sumana, chúa tể của ba cõi, và nêu ra những câu hỏi trên. Đức Phật ã giải quyết vấn ề bằng cách ban ra những bài pháp thích hợp, nhờ ó có chín trăm triệu nhân loại, chư thiên và Phạm thiên giác ngộ Tứ Diệu Đế.

 (Đây là Dhammābhisamaya lần thứ ba) 

Ba kỳ ại hội Thánh Tăng – Sannipāta 

Đại hội lần thứ nhất xảy ra khi Đức Phật cùng với mười trăm ngàn triệu vị A-la-hán, tất cả ều là Thiện lai tỳ khưu, sau khi an cư kiết hạ gần thành phố Mekhala và khi kết thúc mùa an cư, vào ngày Tự tứ, Ngài tụng Pāṭimokkha vào ngày rằm tháng Assayuja. 

 (Đây là Sannipāta lần thứ nhất)

Vào một dịp nọ, khi Đức Phật ang lưu trú trên ngọn núi vàng ròng cao một gāvuta, qua những bài pháp thù thắng Ngài khuyến giáo ến ức vua cùng với chín trăm ngàn triệu tùy tùng của vị ấy. Đức Phật truyền phép xuất gia thiện lai tỳ khưu ến họ và giữa những vị A-lahán thiện lai tỳ khưu này, Ngài tụng Pāṭimokkha giữa hội chúng có bốn ặc tánh.

(4 ặc tánh này ược ề cập trong kinh Dighanakha, Chú giải của kinh Trung bộ: 1) Đại hội ược tổ chức vào ngày rằm tháng Magha

(tháng 1). 2) Đại hội ược tổ chức với sự tham dự của các vị A-la-hán mà không cần phải triệu thỉnh. 3) Tất cả tỳ khưu tham dự ại hội là những vị A-la-hán ã chứng ắc Lục thông. 4) Tất cả các vị ều là Thiện lai tỳ khưu - Ehi-bhikkhu)

     (Đây là Sannipāta lần thứ ba)

              Đức Phật Sumana thọ ký cho long vương Atula,                                      tức Bồ tát Gotama 

Trong thời gian Đức Phật Sumana còn tại tiền, Bồ tát Gotama tái sanh làm long vương có ầy quyền lực. Khi hay tin rằng Đức Phật ã xuất hiện trong ba cõi và có bà con quyến thuộc theo Ngài, Long vương bèn ra khỏi chỗ ngụ của vị ấy và làm các việc phước ến Đức Phật và chúng ệ tử của Ngài gồm mười trăm ngàn triệu tỳ khưu như xướng lên âm nhạc và cúng dường ồ ăn, thức uống. Vị ấy cũng dâng y ến mỗi vị tỳ khưu và sau ó quy y Tam bảo.

Nhân ó Đức Phật ban lời tiên tri: ‘Vị Long vương này trong tương lai sẽ thành một vị Phật danh hiệu là Gotama.’

Khi nghe lời tiên tri của Đức Phật Sumana, Long vương Atula rất phấn chấn và vững chắc quyết tâm thể hiện tinh tấn nhiều hơn nữa, trong việc thực hành viên mãn mười pháp Ba-la-mật.

Những chi tiết ặc biệt về Đức Phật Sumana 

Nơi sanh của Đức Phật Sumana là kinh ô Mekhala.

Cha là vua Sudatta và mẹ là hoàng hậu Sirimā.

Ngài trị vì chín ngàn năm và ba cung iện của Ngài là Canda, Sucanda và Vataṃsa.

Chánh hậu là Vataṃsikā với sáu triệu ba trăm ngàn cung nữ hầu hạ. Con trai là hoàng tử Anupama.

Hai ại ệ tử là trưởng lão Sarana và trưởng lão Bhāvitatta. 

Thị giả là trưởng lão Udena.

Hai ại ệ tử nữ là trưởng lão ni Soṇā và trưởng lão ni Upasoṇā. Cây giác ngộ là cây Nāga.

Hai cận sự nam là trưởng giả Varuna và trưởng giả Sarana. Hai cận sự nữ là Cālā và Upacālā.

Đức Phật Sumana cao chín mươi hắc tay. Giống như cột trụ bằng vàng ể thờ cúng, thân Ngài phát ánh hào quang rực rỡ chiếu khắp thế giới.

Thọ mạng trong thời của Ngài là chín chục ngàn năm và suốt những năm tháng này, Ngài ã tế ộ cho vô số chúng sanh gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên, ưa họ ra khỏi ại dương của luân hồi và ặt họ bên kia bờ của Niết bàn.

Sau khi giải thoát cho những chúng sanh áng ược giải thoát ra khỏi ại dương luân hồi và thuyết giảng ến những chúng sanh áng ược nghe thuyết giảng về Tứ Diệu Đế, Đức Phật Sumana viên tịch ại Niết bàn như mặt trăng chìm lặn.

Chúng Thinh văn ệ tử của Ngài, những vị A-la-hán, bậc ã oạn trừ tất cả lậu hoặc; và Đức Phật, bậc vô song trong tam giới, ã chiếu sáng thế gian bằng ánh sáng vô song của Chánh pháp - tất cả rồi cũng viên tịch, ể lại bóng êm dày ặc cho thế gian.

Kinh cảm quán 

Nhất thiết trí vô ịch của Đức Phật Sumana, những kho tàng pháp bảo vô song của Ngài như bốn Quả, bốn Tuệ phân tích, v.v...  tất cả ều biến mất. Các pháp hữu vi quả thật vô dụng, không thực tánh!

Bảo tháp 

Như vậy Đức Phật Sumana, bậc ã hoàn toàn giác ngộ Tứ diệu ế, thành ạt danh tiếng lớn, ã viên tịch ại Niết bàn tại khu vườn Aṅga. Trong chính khu vườn ấy,  một bảo tháp ược xây dựng, cao bốn do tuần ể cúng dường Ngài.

Theo thông lệ ối với chư Phật có thọ mạng lâu dài, Xá lợi của Đức Phật Sumana không thể bị tan vỡ, rắn chắc như pho tượng vàng. Những viên Xá lợi này ược tôn trí trong bảo tháp ấy, dân cư khắp xứ Diêm phù ề ã em ến bảy loại châu báu ể trang trí giúp hoàn thành công trình xây dựng.

     Kết thúc lịch sử Đức Phật Suman - Sumana Dudhavaṃsa  

]œ

 

  5.  Revata Buddhavaṁsa                        ( Lịch sử Đức Phật Ly-bà-a)  

Sau khi Đức Phật Sumana viên tịch, thọ mạng của loài người giảm từ chín chục ngàn năm xuống còn mười năm; và từ mười năm thọ mạng lại tăng lên ến A-tăng-kỳ tuổi. Khi thọ mạng lại giảm xuống sáu mươi ngàn năm thì Bồ tát Revata (Ly-bà-a) lúc ấy ã thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật và ang ở cung trời Đâu suất à (Tusitā ) theo úng thông lệ của chư vị Bồ tát. Khi ang thọ hưởng ời sống chư thiên ở ó, Ngài nhận lời thỉnh cầu của chư thiên và Phạm thiên, xuống cõi nhân loại và thọ sanh vào lòng của hoàng hậu Vipulā, là hoàng hậu của vua Vipula, tại kinh ô Sudhaññavatī. Mười tháng trôi qua, Ngài ra khỏi lòng mẹ như thiên nga chúa xuất hiện trên ỉnh núi Citta.

Đời sống ở vương cung 

Khi Bồ tát, tức thái tử Revata ến tuổi trưởng thành, Ngài sống trong ba cung iện xinh ẹp bậc nhất, ó là Sudassana, Ratanagghi và Āvela - ba cung iện này xuất hiện do quả phước Ba-la-mật của Ngài trong quá khứ. Ngài thọ hưởng ời sống ế vương giống như ở thiên cung trong sáu ngàn năm cùng với chánh hậu là Sudassanā, ược hầu hạ, phục dịch bởi ba mươi ba ngàn cung nữ.

Sự xuất gia  

Sống trong cảnh cao sang quyền quý như vậy cho ến một hôm, hoàng hậu Sudassanā hạ sanh một hoàng nam tên là Varuṇa. Sau khi trông thấy bốn iềm tướng, trong bộ y rực rỡ do chư thiên dâng tặng - nét ặc thù của chư vị Bồ tát, Ngài ra i xuất gia cỡi trên chiếc xe tuấn mã với một oàn cận vệ ông ảo gồm bốn loại binh chủng: tượng binh, mã binh, xa binh và bộ binh - giống như mặt trăng trong êm rằm ược vây quanh bởi các tinh tú; giống như Đế Thích, vua của chư thiên với ông ảo chư thiên theo hầu; hoặc giống như Harita, vua của Phạm thiên, có chúng Phạm thiên theo hầu. Khi ến một khu rừng nọ, Ngài trao y cho vị quan giữ kho, tự cắt tóc rồi quăng lên hư không.

Mớ tóc ấy ược Đế Thích ỡ lấy trong một cái bát bằng vàng và ược tôn trí trong một bảo tháp bằng bảy báu ở trên ỉnh núi Tudi, thuộc cung trời Đao lợi (Tāvatiṃsa).

Sau khi ã mặc vào chiếc y hoa sen do Phạm thiên dâng tặng và trở thành vị Sa-môn, mười triệu nhân loại cũng theo gương Ngài mà xuất gia làm sa-môn. 

Rồi Bồ tát Revata tinh tấn thực hành pháp khổ hạnh (dukkharacariyā) cùng với mười triệu Sa-môn tùy tùng trong bảy tháng.

Sự thành ạo 

Sau khi ã hoàn thành pháp khổ hạnh, vào ngày rằm tháng tư (Vesakha) - ngày Thành ạo, Ngài ộ món cơm sữa do Sādhu Devī, con gái của một vị trưởng giả dâng cúng, và trải qua suốt ngày trong rừng cây sala. Buổi chiều Ngài rời chúng Sa-môn tùy tùng và một mình lặng lẽ i ến cội cây bồ ề. Trên ường i, Ngài nhận tám nắm cỏ do một người dị giáo tên Varunindhara dâng cúng. Ngay khi Ngài trải nó dưới cội cây bồ ề, Vô ịch bảo tọa (Aparajita Pallaṅka) cao năm mươi ba hắc tay xuất hiện. 

Ngồi kiết già trên bảo tọa, Ngài thể hiện bốn mức ộ tinh tấn, chiến thắng Ma vương và tùy tùng của ma vương. Rồi Ngài chứng ắc Vô thượng Chánh ẳng giác, thành bậc Thế Tôn của tam giới.

                 Ba Thắng thời thuyết pháp của Đức Phật Revata

              (Dhammābhisamaya)  

Sau khi thành ạo và trải qua bốn mươi chín ngày ở bảy chỗ quanh cây bồ ề, Đức Phật Revata nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên thuyết pháp ộ sanh. Khi suy xét ai sẽ ược tế ộ trước tiên, Ngài thấy mười triệu vị sa-môn trước kia ã cùng Ngài xuất gia, chư thiên và nhân loại - những người ã gieo tạo ầy ủ phước duyên ể có thể chứng ắc Đạo Quả và Niết bàn. Quán xét về chỗ ở của họ, Ngài biết rằng họ ang ở tại khu vườn Varuna, cách cây bồ ề mười tám gāvuta. Sau khi em theo y và bát, Ngài lập tức i ến chỗ ngụ của họ tại khu vườn Varuna bằng con ường hư không.

(Xin lượt bỏ phần nói về các vị Sa-môn ón tiếp Đức Phật). Rồi

Đức Phật Revata thuyết bài kinh Chuyển pháp luân ến mười triệu vị sa-môn và giúp họ giác ngộ Tứ diệu ế. Chúng sanh chứng ắc các tầng thánh Đạo và Quả thấp hơn thì vô số.

     (Đây là Dhammābhisamaya thứ nhất)

Một dịp khác, Đức Phật Revata ến viếng thành phố Uttara - sở dĩ có tên như vậy vì ó là thành phố nổi trội hơn các thành phố khác và cũng là kinh ô của vua Arindama. Hay tin Đức Phật ến kinh ô của mình, ức vua cùng với ba chục triệu tùy tùng ã ra nghinh tiếp và mời Ngài cùng chúng Tăng ến thọ thực vào ngày mai. Trong bảy ngày ức vua ã phục vụ Đức Phật và chúng Tăng bằng những cuộc bố thí vĩ ại và tổ chức lễ hội ốt èn khắp ba gāvuta ể cúng dường Đức Phật. Đức Phật thuyết giảng những bài pháp thích hợp với căn tánh của ức vua. Trong dịp thuyết pháp ấy, mười ngàn triệu chư thiên và nhân lọai ã giác ngộ Tứ Diệu Đế, thoát khỏi luân hồi.

(Đây là Dhammābhisamaya thứ hai)

Lại một dịp khác, khi ang lưu trú gần thị trấn Uttara, nơi khất thực của Ngài, Đức Phật Revata ã nhập thiền Diệt (Nirodhasamapatti) trong bảy ngày. Dân thị trấn mang món cơm dẽo, những loại vật thực khác và thức uống em dâng ến chư Tăng. Họ hỏi chư Tăng: “Bạch chư ại ức, hiện giờ Đức Phật ang ở âu?” Các vị tỳ khưu áp lại: “Đức Phật ang nhập thiền Diệt Thọ Tưởng Định.” Bảy ngày trôi qua, họ có cơ hội gặp Đức Phật và hỏi Ngài về những lợi ích của loại thiền ấy. Nhân ó, Đức Phật giảng giải về những lợi ích của thiền Diệt; khi ấy có một ngàn triệu chư thiên và nhân loại ược an trú trong ạo quả A-la-hán.

(Đây là Dhammābhisamaya thứ ba)

Ba kỳ ại hội Thánh Tăng- Sannipāta 

Có ba kỳ Đại hội của chư Thinh văn ệ tử của Đức Phật, kỳ thứ nhất diễn ra tại thành phố Sudhannavatī, ở ó Đức Phật Revata tụng Pāṭimokkha lần ầu tiên ến các vị A-la-hán, tất cả ều là Thiện lai tỳ khưu và số lượng không thể nghĩ bàn.

(Đây là Sannipāta lần thứ nhất)

Về sau, ại hội ược tổ chức ở thành phố Mekhala, Đức Phật tụng Pāṭimokkha ến mười trăm ngàn triệu vị A-la-hán, tất cả ều là Thiện lai tỳ khưu.

    (Đây là Sannipāta lần thứ hai)

Tại Đại hội Thánh Tăng lần thứ ba, Đức Phật Revata giảng giải về ba ặc tánh vô thường, khổ và vô ngã ến dân chúng khi họ ến ể thăm hỏi bịnh tình của ại trưởng lão Varuṇa - vị ại ệ tử cánh tay phải của Đức Phật, bậc tướng quân của chánh pháp vì vị ấy có khả năng làm cho bánh xe Pháp thường xuyên luân chuyển. Tình trạng của trưởng lão lúc bấy giờ rất trầm trọng khiến nhiều người phải lo lắng và thắc mắc: “Liệu Ngài có sống ược không?” Tại ại hội ấy, Đức Phật cũng truyền phép xuất gia Thiện lai tỳ khưu cho một trăm ngàn người và an trú họ trong Đạo Quả A-la-hán. Ngài tụng Pāṭimokkha giữa hội chúng Thánh Tăng Thiện lai tỳ khưu ấy.

      (Đây là Sannipāta lần thứ ba)

Đức Phật Revata thọ ký cho Bà la môn Atideva 

                     Bồ tát Gotama  

Lúc bấy giờ Bồ tát Gotama là Bà-la-môn Atideva, ã thông suốt tất cả kiến thức trong bà-la-môn giáo ược lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác qua những vị giáo sư nổi tiếng. Sau khi ược yết kiến Đức Phật Revata và nghe pháp của Ngài, Bồ tát quy y Tam bảo và xướng lên một ngàn câu kệ ể tán dương các ân ức của Đức Phật như giới, ịnh           và       tuệ      của     Ngài   và       dâng   cúng          chiếc   áo       khoác                  trị giá một ngàn ồng tiền vàng của vị ấy.

Nhân ó, Đức Phật Revata công bố lời tiên tri: “Sau hai A-tăng-kỳ và một trăm ngàn ại kiếp kể từ ại kiếp hiện tại này, ngươi sẽ thành một vị Phật danh hiệu là Gotama.”

Được Đức Phật thọ ký như vậy, tâm của Bồ tát trở nên phấn chấn hơn và vị ấy dũng cảm quyết tâm nỗ lực nhiều hơn nữa ể thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật với chí nguyện: “Ta sẽ quán tưởng và tu tập các pháp Ba-la-mật và cố gắng thành ạt Phật quả mà ta ã hằng mong ước.”

Những chi tiết ặc biệt về Đức Phật Revata 

Nơi sanh của Ngài là kinh ô Sudhañña,.

 Phụ vương là vua Vipula, mẫu hậu là hoàng hậu Vipulā.

Ngài cai trị vương quốc trong sáu ngàn năm và ba cung iện của Ngài là Sudassana, Ratanagghi và Āvela. 

Hoàng hậu là Sudaddanā, có 33 ngàn cung nữ hầu hạ. Con trai là Varuna.

Sau khi trông thấy bốn iềm tướng, Ngài từ bỏ thế gian ra i bằng xe song mã, thực hành khổ hạnh trong bảy tháng.

Hai ại ệ tử là trưởng lão Varuṇa và trưởng lão Brahmadeva. 

Thị giả là trưởng lão Sambhava.

Hai ại ệ tử nữ là trưởng lão ni Bhaddā và trưởng lão ni Subhaddā.

Cây giác ngộ là cây Nāga.

Hai cận sự nam bậc thánh là trưởng giả Paduma và trưởng giả Kuñjara. Hai cận sự nữ bậc thánh là Sirimā và Yasavatī.

Đức Phật Revata cao tám mươi hắc tay. Ngài chiếu sáng khắp phương như lá cờ của Đế Thích. Thân Ngài tỏa hào quang khắp quanh một gāvuta, cả ngày lẫn êm.

Thọ mạng trong thời kỳ của Ngài là sáu chục ngàn năm. Ngài sống bốn phần năm thời kỳ thọ mạng này, cứu ộ vô số chúng sanh gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên, ưa họ ra khỏi những cơn lũ của luân hồi và ặt họ bên kia bờ Niết bàn.

Sau khi ã thuyết giảng Giáo pháp bất tử ến thế gian bằng cách thể hiện Thập lực của các ấng Chánh biến tri, Đức Phật Revata viên tịch ại Niết bàn như ngọn lửa khổng lồ vụt tắt khi nhiên liệu ã cạn hết

                                    Kinh cảm quán  

Kim thân ấy của Đức Phật Revata giống như viên bảo ngọc rắn và giáo pháp vô song của Ngài tất cả biến mất. Các pháp hữu vi quả thật vô dụng và không thực chất!

Khi sắp viên tịch, Đức Phật Revata nguyện rằng: “Nguyện cho Xá lợi của Ta không kết thành một khối mà rời ra thành những viên nhỏ và truyền ến nhiều nơi ể khi Ta viên tịch thì Xá-lợi giúp cho tất cả chúng sanh có thể ạt ến các cõi chư thiên và Niết bàn (theo quả của chúng).

 Ngài viên tịch tại rừng cây Nāga, không gần cũng không xa thành phố. Xá lợi của Ngài không kết lại thành một khối mà phân tán i khắp nơi trong xứ Diêm phù ề theo úng với ý nguyện của Ngài và ược nhân loại, chư thiên và Phạm thiên ngày êm lễ bái cúng dường.

 Kết thúc lịch sử của Đức Phật Revata -  Revata Buddhavaṃsa           ]œ

 

6. Sobhita Buddhavaṁsa                        (Lịch sử Đức Phật Tô-bì-a)        

Sau khi Đức Phật Revata viên tịch, thọ mạng của loài người dần dần giảm từ sáu chục ngàn năm xuống còn mười năm rồi lại tăng lên ến A-tăng-kỳ tuổi. Khi thọ mạng loài người lại giảm xuống lần thứ hai còn chín mươi ngàn năm, Bồ tát Sobhita sau khi thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật trong bốn A-tăng-kỳ và một trăm ngàn ại kiếp, ã tái sanh ở cung trời Đâu suất, là ặc iểm của chư vị Bồ tát. Khi ang sống ở ó, Ngài nhận lời thỉnh cầu của chư thiên xuống cõi nhân loại và thọ sanh vào lòng bà Sudhammā, chánh hậu của vua Sudhamma, trong kinh ô có cùng tên. Sau mười tháng, Bồ tát ra khỏi lòng mẹ tại khu vườn Sudhamma, giống như trăng rằm ra khỏi những ám mây en.

Đời sống trong vương cung 

Khi Bồ tát thái tử Sobhita ến tuổi trưởng thành, Ngài sống trong ba cung iện bằng vàng, ó là Kumuda, Nalina và Paduma, một cuộc sống ế vương như ở cõi chư thiên, chánh hậu Manila, và ược hầu hạ bởi ba mươi bảy ngàn cung nữ.

Sự xuất gia 

Khi ang sống trong cảnh vui sướng như vậy thì chánh hậu Manila hạ sanh một hoàng nam tên là Sīha. Sau khi thấy bốn iềm tướng, Bồ tát Sobhita khởi tâm xúc ộng mãnh liệt. Ngay tại hoàng cung Ngài sống cuộc ời của một vị Sa-môn và thực hành pháp thiền niệm hơi thở (ānāpāna-bhāvanā) cho ến khi Ngài chứng ắc tứ thiền. Ngài ã thực hành pháp khổ hạnh (dukkaracariyā) trong bảy ngày ngay tại hoàng cung.

Vào ngày rằm tháng tư (Vesākha), ngày Thành ạo, Ngài ộ món cơm sữa do chính tay của chánh hậu Manila dâng ến. Với ý chí xuất trần, Ngài phát nguyện:

“Xin cho cung iện này, với tất cả mọi tiện nghi và cảnh trí thường ngày của nó hãy bay vào không trung trong khi dân chúng ang ngắm nhìn, rồi áp xuống ất và cây ại Bồ ề xuất hiện giữa trung tâm. Khi ta ến gần cây bồ ề, xin cho tất cả cung nữ rời khỏi cung iện theo ý thích của họ mà ta không cần phải ra lệnh.”

Bồ tát vừa phát nguyện xong thì cung iện từ sân triều của vua cha Sudhamma liền bay lên bầu trời có màu xanh ậm. Cung iện ược trang trí bởi những tràng hoa thơm chiếu sáng rực rỡ, như mặt trời tỏa ra ánh sắc vàng hoặc như mặt trăng tròn tỏa sáng êm rằm mùa thu. Cung iện bay khắp vòm trời trước sự vui thích của dân chúng với màu sắc rực rỡ của những nhánh cây và châu báu.

Cung iện ấy cũng có nhiều loại chuông nhỏ ược treo rũ xuống thật tuyệt ẹp. Chỉ cần một làn gió nhẹ thoảng qua là dãy chuông phát ra âm thanh du dương như tiếng của năm loại nhạc khí do những nhạc công tài ba tấu lên. Âm thanh trầm bỗng của tiếng chuông ã thu hút mọi người dù họ ang ứng bất cứ nơi nào, trong nhà hay ngoài phố, tất cả ều ca ngợi và tán thán. Âm thanh tựa như ang công bố các ặc tánh của những việc phước mà Bồ tát ã gieo tạo trong quá khứ.

Những vũ nữ trong cung iện ang lơ lửng trên không trung cũng xướng lên những bài ca với giọng khả ái hòa cùng tiếng nhạc làm say ắm người nghe, họ xướng lên những lời ca ngợi Bồ tát. Bốn ội binh ứng quanh hoàng cung trên bầu trời như ang ứng trên ất liền. Họ giống như những ội binh của chư thiên sáng chói gươm ao và áo giáp.

Sau khi ã bay trên vòm trời như vậy, cung iện của Bồ tát áp xuống mặt ất tạo ra cây bồ ề Nāga ở giữa trung tâm. Cây bồ ề cao tám mươi tám hắc tay, thân thẳng, rộng, tròn ều và rực rỡ với những chùm hoa, cành lá và chồi non. Rồi các cung nữ rời cung iện, ra i theo ý thích của họ.

Sự thành ạo 

Sáng chói với nhiều ức tính và ược vây quanh bởi những oàn người, Đức Phật Sobhita ã chứng ắc tam minh suốt ba canh của êm. Binh ma cũng ến như thường lệ. Tuy nhiên cung iện vẫn ở yên nơi ó.

Ba Thắng thời thuyết pháp của Đức Phật Sobhita  (Dhammābhisamaya) 

Sau khi giác ngộ Chánh ẳng giác, Đức Phật Sobhita trải qua bốn mươi chín ngày ở bảy chỗ quanh khu vực của cây ại Bồ ề. Nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, Ngài suy xét ai sẽ ược thuyết pháp tế ộ trước tiên và với thiên nhãn, Ngài thấy hai người em khác mẹ của Ngài, là hoàng tử Asama và hoàng tử Sunetta. Khi biết rằng họ có phước hộ trì (upanissaya) và có thể lãnh hội giáo pháp thậm thâm và vi diệu, Ngài quyết ịnh thuyết pháp ến họ. Ngài vận thần thông bay qua hư không và áp xuống tại vườn thượng uyển Sudhamma. Đức Phật bảo người giữ vườn i gọi hai vị hoàng tử. Giữa hội chúng gồm hai vị hoàng tử và tùy tùng của họ, nhân loại, chư thiên và Phạm thiên khắp các cõi từ cõi Hữu ỉnh thiên (bhavagga) xuống ến cõi ịa ngục A-tỳ (avici), Đức Phật thuyết bài kinh Chuyển pháp luân (Dhammacakka-pavattana Sutta), kết quả là vô số nhân loại, chư thiên và Phạm thiên ều thông ạt Tứ Diệu Đế.

 (Đây là Dhammābhisamaya lần thứ nhất) 

Vào một dịp khác, sau khi thị hiện Song thông gồm nước và lửa gần cây Cittapatali cực kỳ xinh ẹp, gần cổng thành Sudassana, ngồi trên tảng á Pandukambala bằng ngọc lục bảo dưới cây san hô, Đức Phật thuyết tạng A-tỳ-àm. Vào lúc kết thúc thời pháp, chín trăm ngàn triệu chư thiên và Phạm thiên ều thông ạt Tứ Diệu Đế, và thoát khỏi luân hồi.

 (Đây là Dhammābhisamaya lần thứ hai) 

Lại một dịp khác, hoàng tử Jayasena xây dựng một tịnh xá trong một khu vườn tại Sudassana, nơi ây vị ấy cho trồng những cây quí như asoka, assakanna, v.v... cây này nối tiếp cây kia. Hoàng tử dâng tịnh xá cùng với khu vườn ến chúng Tăng có Đức Phật chứng minh. Tại ại lễ dâng cúng tịnh xá, Đức Phật Sobhita thuyết pháp tán dương sự cúng dường ấy. Vào lúc kết thúc của thời pháp, mười trăm ngàn triệu chúng sanh gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên ều thông ạt Tứ Diệu Đế.

   (Đây là Dhammābhisamaya lần thứ ba) 

Ba kỳ ại hội Thánh Tăng – Sannipāta  

Một lễ dâng cúng khác về tịnh xá Sunandārāma tại kinh ô Sunanda do vua Uggata dâng cúng ến chúng Tăng có Đức Phật chứng minh. Trong ại hội này có một ngàn triệu vị A-la-hán thiện lai tỳ khưu tham dự. Đức Phật ã tụng bài chỉ giáo Pāṭimokkha ến họ.

   (Đây là Sannipāta lần thứ nhất)

Lại nữa, một nhóm người có giới ức gọi là Dhammagana ã xây dựng một tịnh xá tên là Gaṇārāma tại thành phố Mekhala và dâng nó ến chúng Tăng có Đức Phật chứng minh. Họ cũng bố thí cúng dường các món vật dụng khác. Trong dịp này có chín trăm triệu vị A-la-hán thiện lai tỳ khưu tham dự và Đức Phật ã ban lời giáo giới Pāṭimokkha ến họ.

   (Đây là Sannipāta lần thứ hai).

Sau khi thuyết giảng tạng A-tỳ-àm và trú ngụ suốt mùa an cư tại cung trời Đao lợi với chư thiên và Phạm thiên theo hầu. Đức Phật trở về cõi nhân loại ể làm lễ Tự tứ và ban lời giáo giới Pāṭimokkha ến hội chúng, gồm tám trăm triệu vị A-la-hán thiện lai tỳ khưu.

   (Đây là Sannipāta lần thứ ba).

           Đức Phật Sobhita thọ ký cho Bà-la-môn Sujāta 

                                   (Bồ tát Gotama)  

Lúc bấy giờ Bồ tát Gotama sanh làm vị Bà-la-môn tên là Sujāta, cha mẹ thuộc dòng dõi Bà-la-môn ở tại thành phố Rammavati. Sau khi nghe pháp của Đức Phật Sobhita, Bồ tát quy y Tam bảo. Vị ấy bố thí vật thực rất rộng rãi ến Đức Phật và chúng Tăng trong ba tháng an cư. Rồi Đức Phật Sobhita công bố lời tiên tri về Bà-la-môn Sujāta: “Người này trong tương lai sẽ thành một vị Phật danh hiệu Gotama.”

Những ức tánh ặc biệt về Đức Phật Sobhita 

Nơi ản sanh của Đức Phật Sobhita là kinh ô Sudhamma.

 Cha là vua Sudhamma và mẹ là hoàng hậu Sudhammā.

Ngài trị vì vương quốc trong chín ngàn năm. Ba cung iện của Ngài là Kamuda, Nalina và Paduma. 

Chánh hậu Manilā, với ba mươi bảy ngàn cung nữ. Con trai là Sīha.

Phương tiện chuyên chở của Ngài vào dịp xuất gia sau khi trông thấy bốn iềm tướng là hoàng cung. Ngài thực hành khổ hạnh chỉ trong bảy ngày tại hoàng cung này.

Hai ại ệ tử là trưởng lão Asama và trưởng lão Sunetta. 

Thị giả là trưởng lão Anoma.

Hai ại ệ tử nữ là trưởng lão ni Nakulā và trưởng lão ni Sujātā. Cây giác ngộ là cây Nāga.

Hai cận sự nam bậc thánh là trưởng giả Ramma và trưởng giả

Sudatta. 

Hai cận sự nữ bậc thánh là tín nữ Nakulā và tín nữ Mittā.

Đức Phật Sobhita cao năm mươi tám hắc tay. Như mặt trời ban mai, hào quang phát ra từ thân có thể chiếu sáng khắp mười phương, xa bao nhiêu tùy ý của Ngài.

Giống như khu rừng lớn ầy hoa và tỏa ra nhiều loại hương thơm ngát, khu rừng giáo pháp của Đức Phật Sobhita thơm ngát những loại hương của giới hạnh.

Một ví dụ so sánh khác: Giống như những con sóng của ại dương ngày êm xô dạt vào bờ không biết chán; cũng vậy, chúng sanh gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên cũng không biết chán khi nghe những lời giảng dạy của Đức Phật Sobhita. 

Thọ mạng trong thời của Đức Phật Sobhita là chín chục ngàn năm và suốt bốn phần năm của thọ mạng, Ngài ã cứu vớt vô số chúng sanh gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên ra khỏi những dòng thác lũ của luân hồi và ặt họ bên kia bờ Niết bàn.

Sau khi ể lại giáo pháp thù thắng a dạng, ngắn có dài có, cho chúng sanh trong tương lai mà chưa chứng ạt giải thoát khi Ngài còn tại tiền, Đức Phật Sobhita cùng với chúng Thanh văn ệ tử ã chấm dứt kiếp sống luân hồi, viên tịch ại Niết bàn như ngọn lửa lớn chợt tắt lịm.

Kinh cảm quán

Đức Phật Sobhita ngang bằng với chư Phật quá khứ, và chúng ệ tử A-la-hán của Ngài, những bậc có lục thông và những năng lực khác, tất cả ều biến mất. Các pháp hữu vi thật vô dụng, không thực tánh!

Trước khi viên tịch ại Niết bàn, Đức Phật Sobhita chú nguyện rằng: “Khi Ta viên tịch rồi, Xá lợi của Ta không tụ thành một khối mà thành nhiều ngôi nhỏ và phân tán khắp nơi.” Và sự viên tịch của Ngài xảy ra ở khu vườn Sīha. Xá lợi của Ngài phân tán i khắp xứ diêm phù ề ược nhân loại, chư thiên và Phạm thiên ngày êm lễ bái cúng dường.

Kết thúc lịch sử của Đức Phật Sobhita- Sobhita Buddhavaṃsa  

]œ

 

7. Anomadassī Buddhavaṁsa (Lịch sử Đức Phật Cao Kiến) 

Sau ại kiếp có Đức Phật Sobhita xuất hiện thì vô số ại kiếp tiếp theo không có chư Phật xuất hiện, tức Không kiếp (suññata kappa). Và sau vô số không kiếp này ến một ại kiếp, trong ó có ba vị Phật lần lượt xuât hiện, ó là Đức Phật Anomadassī (Cao Kiến), Đức Phật Paduma (Hồng Liên) và Đức Phật Naradā (Na-la-à).

Vị Phật ầu tiên trong ba vị Phật này là Đức Phật Anomadassī (Cao Kiến).

Sau khi ã thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật trong mười sáu A-tăng-kỳ và một trăm ngàn ại kiếp và cũng như các vị Bồ tát khác, Bồ tát Anomadassī tái sanh vào cung trời Đâu suất. Được chư thiên và Phạm thiên thỉnh cầu, Bồ tát xuống cõi nhân loại và thọ sanh vào lòng của hoàng hậu Yasodharā, vợ của vua Yasavā, tại kinh ô Candavatī.

Một iều kỳ diệu xảy ra. Ngay khi hoàng tử Anomadassī vừa thọ sanh, do phước quá khứ của hoàng tử, ánh sáng phát ra rộng tám mươi hắc tay, vượt trội cả ánh sáng của mặt trời và mặt trăng.

Hoàng hậu hạ sanh hoàng tử Anomadassī  tại khu vườn Sucandana sau mười tháng.

Khi Bồ tát còn ở trong bào thai thì châu báu trên trời liên tục rơi xuống gọi là Anoma nên vào ngày ặt tên, hoàng tử ược các bậc trí tuệ ặt tên là Anomadassī.

Đời sống ở vương cung 

Khi thái tử Anoma ến tuổi trưởng thành, Ngài sống trong ba cung iện: Sirī, Upasirī và Vaḍḍha giống như cung iện ở cõi chư thiên. Bên cạnh là chánh hậu Sirimā với hai mươi ba ngàn cung nữ hầu hạ và thời gian Ngài trị vì vương quốc trong mười ngàn năm.

Sự xuất gia 

Khi Ngài ang sống như vậy thì hoàng hậu Sirimā hạ sanh một hoàng nam tên là Upavāṇa. Trông thấy bốn iềm tướng, Bồ tát thái tử Anomadassī từ bỏ ời sống gia ình, ra i xuất gia trên chiếc kiệu và trở thành vị Sa-môn. Ba chục triệu người cảm kích về hành ộng xuất gia của Ngài cũng ra i xuất gia Sa-môn. Cùng với những vị sa-môn này, Bồ tát thực hành pháp khổ hạnh trong mười tháng.

Sự thành ạo  

Sau khi ã thực hành xong pháp khổ hạnh vào ngày rằm tháng tư (Vesākha), ngày thành ạo của Ngài, Ngài i ến ngôi làng của trưởng giả Anupama ể khất thực và ộ món cơm sữa do Anopamā, con gái của vị trưởng giả dâng cúng. Trải qua suốt ngày trong khu vườn Sala của ngôi làng ấy và buổi chiều Ngài một mình i ến cây ại bồ ề. Trên ường i, Ngài nhận tám nắm cỏ do một người dị giáo tên Anoma dâng cúng. Khi Ngài vừa rải mớ cỏ ấy dưới cội cây Ajjuna thì Vô ịch bảo tọa cao ba mươi tám hắc tay xuất hiện. Ngồi kiết già trên bảo tọa, Ngài vận dụng bốn mức ộ tinh tấn, chiến thắng binh ma và trên hết, chứng ắc Phật quả, thành bậc Thế Tôn của tam giới.

Sau khi ã cắt ứt những sợi dây ái dục ối với luân hồi và vượt qua các nghiệp dẫn ến ba cõi bằng Nghiệp tận trí của Ngài (kammakkhaya), Đức Phật Anomadassī giờ ây có thể khai thị giáo pháp từ Bát Thánh ạo dẫn ến Niết bàn.

Đức Phật giống như ại dương, có những ân ức không thể nghĩ bàn. Với những ân ức này khiến những kẻ ngang ngạnh khó có thể ến gần Ngài, giống như ngọn núi Meru.  Ngài cũng như bầu trời bao la vì những ân ức của Ngài thì vô tận. Rực rỡ với ba mươi hai hảo tướng và tám mươi tướng phụ, Ngài như cây sala nở ầy hoa, tỏa hương thơm ngát.

Chúng sanh hoan hỷ với Đức Phật Anomadassī, nghe Ngài thuyết pháp và chứng ắc Niết bàn vô sanh bất diệt.

        Ba Thắng thời thuyết pháp của Đức Phật Anomadassī

                                  (Dhammābhisamaya) 

Sau khi thành ạo, Đức Phật trải qua bốn mươi chín ngày ở bảy chỗ quanh khu vực cây bồ ề. Ngài nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên và dò xét chúng sanh trong thế gian bằng Phật nhãn của Ngài - Ý lạc tùy miên trí (Āsayānusaya ñāṇa: trí nhận biết khuynh hướng và căn tánh của chúng sanh); và Căn thượng hạ trí (Indriyaparopariyatti ñāṇa: trí nhận biết các quyền của chúng sanh ã thành thục và chưa thành thục). Rồi Ngài trông thấy ba chục triệu tùy tùng ã cùng xuất gia với Ngài, là những người ã tích tập ầy ủ phước báu trong quá khứ có thể chứng ắc Đạo Quả và Niết bàn. Ngài thấy họ ang trú ngụ trong khu vườn Sudassana, gần thành phố Subhavatī, Ngài i ến ó bằng ường hư không và áp xuống khu vườn. Và giữa ba chục triệu vị samôn, Ngài thuyết bài kinh Chuyển pháp luân với  hội chúng gồm nhân loại và chư thiên. Trong dịp ấy, một ngàn triệu chúng sanh thông ạt Tứ Diệu Đế, thoát khỏi luân hồi.

 (Đây là Dhammābhisamaya lần thứ nhất) 

Một dịp khác, khi Ngài ã thị hiện Song thông gần cây Asana, cạnh thành phố; ngồi trên tảng á bằng ngọc lục bảo, Ngài ã rưới cơn mưa Abhidhamma suốt ba tháng mùa an cư. Khi ấy có tám trăm triệu chúng sanh thông ạt Tứ Diệu Đế, chứng ắc giải thoát.

  (Đây là Dhammābhisamaya lần thứ hai) 

Lại một dịp khác, khi Đức Phật thuyết giảng bài kinh Maṅgala, Hạnh phúc kinh, thì có bảy trăm tám chục triệu chúng sanh tỏ ngộ Tứ Diệu Đế, chứng ạt giải thoát.

    (Đây là Dhammābhisamaya lần thứ ba) 

               Ba kỳ ại hội Thánh Tăng – Sannipāta 

Trong kỳ ại hội Thánh Tăng lần thứ nhất, Đức Phật Anomadassī tụng bài chỉ giáo Pāṭmokkha giữa tám trăm ngàn các vị A-la-hán, những bậc ã trở thành thiện lai tỳ khưu (ehi bhikkhu) nhờ niềm tịnh tín.  Vào thời iểm ó, Ngài cũng thuyết Pháp ến nhà vua Isidatta, tại thành phố Soreyya.

      (Đây là Sannipāta lần thứ nhất)

Lần nữa, Đức Phật ang thuyết pháp ến nhà vua Sundarindhara (Madhurindhara), tại thành phố Rādhavati, Ngài tụng bài chỉ giáo Pāṭmokkha giữa bảy trăm ngàn các vị A-la-hán, những bậc ã trở thành thiện lai tỳ khưu nhờ niềm tịnh tín.

(Đây là Sannipāta lần thứ hai)

Lần khác nữa, Đức Phật tụng bài chỉ giáo Pāṭmokkha giữa sáu trăm ngàn các vị A-la-hán, những bậc ã trở thành thiện lai tỳ khưu cùng với vua Soreyya, trong thành phố Soreyya. 

(Đây là Sannipāta lần thứ ba)

                  Bồ tát Gotama làm nguyên soái dạ xoa ược 

                             Đức Phật Anomadassī thọ ký 

Trong thời kỳ giáo pháp của Đức Phật Anomadassī, Bồ tát Gotama của chúng ta làm nguyên soái dạ xoa, cai quản hằng chục triệu dạ xoa oai lực hùng mạnh. Khi nghe tin Đức Phật ã xuất hiện trong thế gian, vị ấy ến yết kiến Đức Phật và tạo ra ngôi giả ốc lộng lẫy, ược trang trí bởi  loại ngọc xinh ẹp, trong ó vị ấy cúng dường vật thực, thức uống, v.v...  ến Đức Phật và chúng Tăng trong bảy ngày.

Trong khi nguyên soái dạ xoa ang nghe Đức Phật thuyết Pháp ể tán dương sự bố thí cúng dường ấy, ồng thời Đức Phật cũng công bố lời tiên tri: “Kể từ ại kiếp này, một A-tăng-kỳ và một trăm ngàn ại kiếp nữa, vị nguyên soái dạ xoa này chắc chắn sẽ thành Phật danh hiệu là Gotama.”       

Những chi tiết ặc biệt về Đức Phật Anomadassī 

Nơi sanh của Đức Phật Anomadassī là kinh ô Candavati.

 Phụ vương là vua Yasavā và mẫu hậu là hoàng hậu Yasodharā.

Ngài cai trị vương quốc trong mười ngàn năm; ba cung iện của Ngài là Sirī, Upasirī và Vaḍḍha.

Chánh hậu Sirimā có hai mươi ba ngàn cung nữ hầu hạ; con trai là hoàng tử Upavāna.

Ngài i xuất gia bằng kiệu khiêng, ngài xuất ly thế gian sau khi trông thấy 4 iềm tướng và thực hành khổ hạnh trong mười tháng.

Hai ại ệ tử là trưởng lão Nisabha và trưởng lão Anoma. 

Thị giả là trưởng lão Varuṇa.

Hai ại ệ tử nữ là trưởng lão ni Sundarī và trưởng lão ni Sumanā. Cây giác ngộ là cây Ajjuna.

Hai cận sự nam là Nandivaḍḍhana và Sirivaḍḍhana. Hai cận sự nữ là Ưu-bà-di Uppalā và Ưu-bà-di Padumā.

Đức Phật Anomadassī cao năm mươi tám hắc tay. Như ánh sáng mặt trời ban mai, thân Ngài hào quang chiếu sáng xa mười hai do tuần.

Thọ mạng trong thời Đức Phật Anomadassī là một trăm ngàn năm. Suốt bốn phần năm của thọ mạng, Ngài ã cứu ộ chúng sanh gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên ra khỏi những cơn lũ của luân hồi và ặt họ bên kia bờ Niết bàn.

Thời kỳ giáo pháp của Đức Phật Anomadassī luôn luôn sáng rực rỡ màu y vàng của những vị A-la-hán,  những bậc Thánh không còn bị dao ộng trước những vui buồn của thế gian, ã thoát khỏi các phiền não và lậu hoặc.

Kinh cảm quán 

Đức Phật Anomadassī, bậc có ồ chúng và danh vọng vô hạn, cùng với hai ại ệ tử và những Thanh văn ệ tử khác là những bậc có những ức tánh siêu việt, tất cả ều không còn nữa. Các pháp hữu vi quả thật vô dụng và không thực tánh!

Bảo tháp 

Đức Phật Anomadassī, bậc chiến thắng ngũ ma, ã viên tịch ại Niết bàn tại khu vườn Dhammārāma. Bảo tháp ược xây dựng dành cho Ngài cao hai mươi lăm do tuần.

(Hai vị là tiền thân của trưởng lão Sāriputta và trưởng lão Moggallāna, ã phát nguyện trở thành ại ệ tử trước Đức Phật

Anomadassī. Điều này sẽ            ược kể lại ở phần lịch sử Đức Phật

Gotama.)

Kết thúc lịch sử Đức Phật Anomadassī - Anomadassī Buddhavaṃsa

]œ

 

                            8. Paduma Buddhavaṁsa                         (Lịch sử Đức Phật Hồng Liên) 

Sau khi Đức Phật Anomadassī viên tịch ại Niết bàn, thọ mạng của loài người giảm từ một trăm ngàn năm xuống còn mười tuổi, rồi lại tăng lên ến A-tăng-kỳ tuổi và lại giảm dần xuống. Khi thọ mạng của loài người giảm xuống một trăm ngàn tuổi, lúc ó Bồ tát Paduma ã thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật và ang thọ hưởng cuộc sống chư thiên ở cung trời Đâu suất à theo úng truyền thống của chư vị Bồ tát. Khi nhận lời thỉnh cầu của chư thiên và Phạm thiên, Ngài xuống cõi nhân loại và thọ sanh vào lòng của  bà Asamā,  chánh hậu của vua Asama. Bồ tát ản sanh trong rừng cây Campaka sau mười tháng

Vào lúc Bồ tát Paduma ản sanh, hoa sen từ trên bầu trời rơi xuống khắp cõi Diêm phù ề bao phủ các vùng biển chung quanh. Do ó, vào ngày ặt tên, các học giả và quyến thuộc gọi Ngài là Mahāpaduma (Hồng liên hay Đại Liên hoa).

Đời sống ở vương cung 

Khi Bồ tát Mahāpaduma ến tuổi trưởng thành, Ngài vào sống trong ba cung iện Nanduttara, Vasuttara và Yasuttara, ược hầu hạ bởi ba mươi ngàn cung nữ ứng ầu là chánh hậu Uttarā. Ngài sống cuộc ời vương giả giống như ở cõi chư thiên trong mười ngàn năm.

Sự xuất gia 

Khi ang sống như vậy thì hoàng hậu Uttarā hạ sanh một hoàng nam tên là Ramma. Sau khi thấy bốn iềm tướng, Ngài i xuất gia trong bộ y phục của chư thiên, bằng xe song mã và trở thành Sa-môn. Noi gương Ngài có mười triệu người khác cũng xuất gia Sa-môn. Cùng với những vị Sa-môn này, Bồ tát Paduma thực hành khổ hạnh trong tám tháng.

Sự thành ạo 

Sau khi tinh tấn thực hành khổ hạnh trong tám tháng, ngày thành ạo của Bồ tát, Ngài ộ món cơm sữa do Dhaññavatī dâng cúng, con gái của một vị trưởng giả tên là Sudhaññavati, ở thành phố Dhaññavatī. Sau nửa ngày trong rừng cây Sala ở gần ó, ến chiều Ngài rời bỏ ồ chúng, một mình i ến cây ại bồ ề. Trên ường i, Ngài nhận tám nắm cỏ do một người dị giáo tên Titthaka dâng cúng, và ngay khi trải mớ cỏ dưới cội cây bồ ề Sona, thì Vô ịch bảo toạ cao ba mươi hắc tay từ dưới lòng ất xuất hiện. Ngồi kiết già trên bảo toạ và vận dụng bốn mức ộ tinh tấn, Bồ tát chiến thắng binh ma và chứng ắc Nhất thiết trí, trở thành một vị Phật, Thế Tôn của ba cõi.

           Ba Thắng thời thuyết pháp của Đức Phật Paduma                                 (Dhammābhisamaya) 

Sau khi thành ạo, Đức Phật Chánh biến tri Paduma trải qua bốn mươi chín ngày ở bảy chỗ quanh khu vực cây bồ ề. Nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, Ngài quán xét xem nên thuyết pháp ai trước và trông thấy các vị Sa-môn ồ chúng của Ngài, số lượng mười triệu. Bằng Phật nhãn, Ngài thấy họ ang trú ngụ ở khu vườn Dhanañjaya, gần thành phố Dhaññavatī. Ngài mang y bát và lập tức xuất hiện ở khu vườn.

Khi thấy Đức Phật i ến từ xa, các vị Sa-môn với tâm tịnh tín ã ón tiếp Ngài một cách nồng hậu, thỉnh y bát của Ngài, thỉnh Ngài ngồi vào chỗ ngồi ã ược sửa soạn chu áo, rồi họ ảnh lễ Đức Phật và ngồi quanh Ngài. Cũng như chư Phật quá khứ, Đức Phật Paduma thuyết bài kinh Chuyển pháp luân giữa hội chúng gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên. Trong dịp ấy có một ngàn triệu nhân loại, chư thiên và Phạm thiên tỏ ngộ Tứ Diệu Đế, chứng ạt giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ nhất)  

Một dịp khác, Đức Phật về hoàng cung tiếp ộ quyến thuộc.Ngài truyền phép xuất gia cho hai người em khác mẹ là hoàng tử Sāla và hoàng tử Upasāla cùng tùy tùng của họ, và thuyết pháp ến chín trăm triệu nhân loại và chư thiên, giúp họ chứng ạt Đạo Quả tối thượng.

(Đây là Dhammābhisamaya thứ hai)

Lại một dịp khác, Đức Phật Paduma thuyết pháp giáo giới ến tôn giả Ramma và chúng sanh tham dự thời pháp ấy với số lượng tám trăm triệu, gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên, tất cả iều tỏ ngộ Tứ Diệu Đế, chứng ạt giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ ba)

Ba kỳ ại hội Thánh Tăng Paduma – Sannipāta  

Có ba kỳ ại hội của những vị Thinh văn ệ tử Đức Phật. Ở kỳ ại hội thứ nhất, vua Suphāvivatta với một ngàn triệu tùy tùng ều trở thành thiện lai tỳ khưu và trong hội chúng ấy, Đức Phật Paduma ã ban lời giáo giới Ovāda Pātimokkha.

(Đây là Sannipāta lần thứ nhất)

Trong một dịp khác Đức Phật an cư kiết hạ và chỗ Ngài ến khất thực là Usabhavati. Ngài ã thuyết pháp những cư dân ến yết kiến Ngài, nhiều người khởi tâm tịnh tín với Đức Phật xuất gia tỳ khưu .Vào ngày rằm tháng giêng (Assayuja), Đức Phật Paduma làm lễ Tự tứ với những vị tỳ khưu trong thành phố Usaphavati và những vị tỳ khưu khác, số lượng là ba trăm ngàn vị A-la-hán thiện lai tỳ khưu.

(Đây là Sannipāta lần thứ hai)

Khi những cư sĩ của thành phố nghe nói về các phước báu của lễ dâng y Kathina, họ bèn dâng y Kathina ến chúng Tăng. Chúng Tăng chỉ ịnh trưởng lão Saha ứng ra thọ lãnh y Kathina, trưởng lão là ại ệ tử cánh tay phải của Đức Phật Paduma, là bậc tướng quân chánh pháp (Dhammasenāpati). Rồi các vị tỳ khưu phụ nhau may xong lá y trong ngày.Vì ây là việc làm của chư Tăng nên Đức Phật cũng tham dự một phần công việc là xâu chỉ luồng kim. Khi công việc ã xong, Đức Phật cùng ba trăm ngàn vị tỳ khưu khởi hành lên ường. Sau ó Đức Phật an cư kiết hạ tại một khu rừng giống như khu rừng Gosinga ầy những cây Sala.Trong khi Đức Phật lưu trú ở ó thì dân chúng ến viếng thăm Ngài. Sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp thì tâm tịnh tín của họ gia tăng và muốn trở thành Sa-môn. Nhân ó Đức Phật trưyền pháp xuất gia thiện lai tỳ khưu cho họ ngay tại ó. Rồi Đức Phật làm lễ Tự tứ giữa hai trăm ngàn vị tỳ khưu.

(Đây là Sannipāta thứ ba)

                 Bồ tát Gotama làm sư tử vương và ược 

                             Đức Phật Paduma thọ ký 

Khi Đức Phật Paduma ang ngụ ở khu rừng Gosinga, thì Bồ tát của chúng ta làm chúa của loài sư tử. Thấy Đức Phật ang nhập thiền Diệt (Nirodhasamāpatti), sư tử vương bèn khởi tâm tịnh tín nên tỏ sự cung kính bằng cách i quanh Ngài ba vòng. Đầy hoan hỷ, vị ấy trỗi lên tiếng rống ba lần và nằm hầu suốt bảy ngày với tâm an trú trong hình ảnh của Đức Phật, không i kiếm vật thực, vị ấy ở bên cạnh Đức Phật với tâm thành kính với nguy cơ phải mất mạng vì ói.

Bảy ngày trôi qua và sau khi xuất khỏi thiền Diệt, Ngài trông thấy sư tử và nguyện rằng: “Nguyện cho sư tử này cũng có lòng tịnh tín ối với chư Tăng.” Đồng thời Ngài cũng nguyện cho chư Tăng ến gần Ngài: “Nguyện cho các vị tỳ khưu hãy ến ây.” Ngay tức thì hàng chục triệu tỳ khưu ến tại chỗ ấy. Bồ Tát cũng khởi tâm tịnh tín ối với chúng Tăng. Sau khi dò xét và biết ược tâm của Bồ tát, Đức Phật Paduma công bố lời tiên tri: “Trong tương lai vị sư tử vương này sẽ thành Phật danh hiệu là Gotama.”

Sau khi nghe lời tiên tri của Đức Phật. Bồ Tát ầy phấn chấn và quyết tâm tinh tấn thực hành viên mãn mười pháp Ba la mật.

Những chi tiết ặc biệt về Đức Phật Paduma  Nơi sanh của Đức Phật Paduma là khu kinh ô Campaka.

 Phụ vương là Asama và mẫu hậu là Asamā.

Ngài cai trị vương quốc mười ngàn năm. Ba cung iện của Ngài là Nanduttara, Vasuttara và Yasuttara.

 Chánh hậu là Uttarā có ba mươi ngàn cung nữ hầu hạ. Con trai là hoàng tử Ramma.

Ngài i xuất gia bằng xe song mã và thực hành khổ hạnh trong tám tháng.

Hai ại ệ tử là trưởng lão Sāla và trưởng lão Upasāla. 

Thị giả là trưởng lão Varuṇa.

Hai ại ệ tử nữ là trưởng lão ni Rādhā và trưởng lão ni Surādha. Cây giác ngộ là cây Mahāsona.

Hai cận sự nam bậc thánh là trưởng giả Bhiyya và trưởng giả Asama, hai cận sự nữ là ưu bà di Ruci và ưu bà di Nandarāmā.

 Đức Phật Pamuda cao năm mươi tám hắc tay. Hào quang từ thân của Ngài tỏa ra bao nhiêu, tùy theo ý muốn của Ngài.

Các loại ánh sáng của mặt trăng, mặt trời, châu báu, lửa và các loại ngọc ều biến mất khi gặp ánh sáng của Đức Phật .

Thọ mạng trong thời kỳ Đức Phật Pamuda là một trăm ngàn năm và sống khoảng bốn phần năm của thọ mạng, Ngài ã cứu vớt chúng sanh, gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên ra khỏi biển luân hồi và ặt họ trên bờ Niết bàn.

Ngài giúp cho những chúng sanh có ngũ quyền thành tựu ược Tứ Diệu Đế ngay trong lúc sanh thời, không bỏ sót một ai và sau khi chỉ dạy cho những chúng sanh khác giữa nhân loại, chư thiên và Phạm thiên ể họ có thể giác ngộ Tứ Diệu Đế, Đức Phật Pamuda cùng với chư Thinh văn ệ tử của Ngài ã viên tịch. Như con rắn lột bỏ lớp da cũ, như cây loại bỏ những chiếc lá vàng, như ngọn lửa cháy hết sau khi nhiên liệu ã cạn kiệt, cũng vậy Đức Phật Pamuda ã viên tịch ại Niết bàn - từ bỏ tất cả các pháp hữu vi, trong thân và ngoài thân.

Như vậy Đức Phật Pamuda ã chiến thắng ngũ ma, ã viên tịch tại khu vườn Phammārāma.Theo úng với nguyện vọng của Ngài, Xá-lợi ược phân tán i khắp cõi Diêm phù ề và ược nhân loại, chư thiên và Phạm thiên ngày êm lễ bái, cúng dường.

Kết thúc lịch sử Đức Phật Pamuda - Pamuda Budhavaṃsa 

]œ

 

9. Nārada Buddhavaṁsa  (Lịch sử Đức Phật Nārada) 

 

Sau khi Đức Phật Pamuda viên tịch, thọ mạng một trăm ngàn năm của loài người dần dần giảm còn mười năm rồi lại tăng lên ến Atăng-kỳ tuổi. Khi thọ mạng loài người giảm xuống chín chục ngàn năm, lúc ấy Bồ tát Nārada ã thực hành viên mãn các pháp Ba-La-Mật và ang thọ hưởng ời sống chư thiên ở cung trời Đâu Suất Đà. Sau khi nhận lời thỉnh cầu của chư thiên và Phạm thiên, Bồ tát xuống cõi nhân loaị và thọ sanh vào lòng của bà Anomā, chánh hậu của Chuyểnluân-vương Sudeva tại kinh ô Dhaññavatī. Sau mười tháng Bồ tát ản sanh tại khu vườn Dhanañjaya.

Vào ngày ặt tên, khi sắp ến giờ ặt tên của Ngài, từ trên trời, từ những cây như ý trên ường, v.v...  nhiều loại y phục, trang sức quý giá rơi xuống mặt ất như cơn mưa rào. Nhân ó Ngài ược ặt tên là Nārada - “Nara” có nghĩa là những vật trang sức thích hợp với mọi người và “da” là người cho.

Đời sống ở vương cung 

Khi thái tử Nārada ến tuổi trưởng thành, Ngài sống trong cung iện Jita, Vijita và Abhirama; ược hầu hạ bởi một triệu hai trăm ngàn cung nữ, dẫn ầu là chánh hậu Vijitasenā. Như vậy Ngài sống cuộc ời ế vương như ở cõi chư thiên suốt chín ngàn năm.

Sự xuất gia 

Khi thái tử Nārada ang thọ hưởng ời sống ế vương như vậy thì công nương Vijitasenā hạ sanh một hoàng nam tên là Nanduttara. Sau khi thấy bốn iềm tướng, Ngài mặc vào bộ y phục xinh ẹp, thoa nước thơm, mang tràng hoa, v.v... vây quanh bởi bốn oàn hùng binh, Ngài i bộ ến vườn thượng uyển. Sau khi cởi bỏ ồ trang sức trên người và trao chúng cho vị quan thủ kho, Ngài tự tay cắt tóc của mình và ném vào không trung.

Sakka, vua của chư thiên, hứng lấy mớ tóc ấy trong một cái hộp bằng vàng và tôn trí trong bảo tháp bằng bảy loại châu báu, cao ba do tuần, ở trên ỉnh núi Tu-di-sơn (Meru) thuộc cung trời Đao lợi (Tavatiṃsa). Sau khi mặc vào bộ y phục của vị ẩn sĩ do Phạm thiên dâng cúng, Bồ tát trở thành vị Sa-môn ngay tại khu vườn ó. Một trăm ngàn người cùng xuất gia với Ngài.

(Điều áng chú ý ở ây là: những vị Bồ tát khác trông thấy các iềm tướng khi họ ang ến vườn thượng uyển ể vui chơi. Khi thấy các iềm tướng và khởi tâm kinh cảm thì các Ngài ra i, không ến nơi vui chơi thường ngày mà ến rừng núi xa xôi ể từ bỏ thế gian. Nơi nhìn thấy các iềm tướng và nơi từ bỏ thế gian là hai nơi khác nhau. Vì hai nơi ấy thường cách xa nhau nên các Ngài dùng phương tiện vận chuyển như voi, ngựa, xe, v.v....

Tuy nhiên trong trường hợp của Đức Phật Nārada thì khác - Ngài thấy bốn iềm tướng ở vườn thượng uyển và xuất gia ngay ó. Chú giải nói rằng khu vườn Dhaññajaya nằm ở vùng phụ cận của kinh ô.)

Sự thành ạo 

Bồ tát Nārada thực hành khổ hạnh  (Dukkaracariya) tại vườn thượng uyển trong bảy ngày. Vào ngày rằm tháng tư, ngày thành ạo của Ngài, Bồ tát ộ món cơm sữa do hoàng hậu Vijitasenā dâng cúng và trải qua suốt ngày trong khu vườn ấy. Buổi chiều Ngài rời bỏ oàn tùy tùng và một mình i ến cây bồ ề. Trên ường i Ngài nhận tám nắm cỏ từ người giữ vườn Sudassana. Khi Ngài vừa trải xong mớ cỏ dưới cội cây bồ ề Sona thì Vô ịch bảo tọa cao năm mươi bảy hắc tay xuất hiện. Ngồi kiết già trên bảo tọa, Bồ tát vận dụng bốn mức ộ tinh tấn, chiến thắng binh ma và chứng ắc Nhất thiết trí, thành bậc Chánh ẳng giác, Thế Tôn của ba cõi.

(Bộ chú giải Buddhavaṃsa nhấn mạnh về cây ại bồ ề Sona của Đức Phật Nārada: “Cây ại Sona cao chín mươi hắc tay, thân tròn nhẵn, có nhiều nhánh lớn xòe ra mọc những nhánh nhỏ ều ặn và cân ối, các tán lá dày ặc, màu xanh ậm, bóng râm chằng chịt không có kẽ hở. Được thọ thần bảo vệ nên chim chóc không thể ến làm tổ, cây ược xem là thọ vương, chúa của cây cối trên mặt ất - có những bông hoa ỏ thắm, tươi tắn và ẹp mắt. Như vậy, cây ấy em lại sự an vui lâu dài cho bất cứ ai - nhân loại hoặc chư thiên ược may mắn ến chiêm ngưỡng).

Ba Thắng thời thuyết pháp của Đức Phật Nārada (Dhammābhisamaya)

Sau khi thành ạo, Đức Phật Nārada trải qua bốn mươi chín ngày ở bảy chỗ quanh khu vực cây bồ ề. Sau khi nhận lời thỉnh cầu thuyết pháp của Phạm thiên, Ngài quán xem nên thưyết pháp ến ai trước. Rồi Ngài thấy những vị Sa-môn ã từng hành ạo chung với Ngài, có ầy ủ phước duyên ể chứng ắc Đạo Quả giải thoát. Sau khi xem xét về chỗ ngụ của họ, Ngài biết rằng họ ang ngụ ở khu vườn Dhanañjaya. Do ó, Đức Phật mang y bát và vận dụng thần thông lập tức xuất hiện ở khu vườn.

Trông thấy Đức Phật từ xa, mười triệu Sa-môn với tâm tịnh tín ã ón tiếp Ngài rất chu áo, thỉnh y và bát của Ngài, thỉnh Ngài an tọa vào chỗ ã ược sắp sẵn, ảnh lễ Ngài rồi ngồi xuống ở nơi phải lẽ. Đức Phật thuyết bài kinh Chuyển pháp luân (Dhammacakkapavattana Sutta) giữa chúng Sa-môn và hội chúng gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên. Trong dịp ấy có một ngàn triệu nhân loại, chư thiên và Phạm thiên giác ngộ pháp tối thượng là Đạo Quả và Niết bàn.

 (Đây là Dhammābhisamaya lần thứ nhất) 

Một lần nọ, Long vương Doṇa ang cai quản ở các bờ của sông Hằng (Gaṅgā), gần thành phố Mahādoṇa. Vị ấy có nhiều quyền lực, ược tôn trọng và kính nể. Nếu dân ịa phương không làm hài lòng bằng sự cúng tế thì long vương sẽ giáng họa xuống dân chúng bằng cách gây ra hạn hán hoặc tạo ra những cơn mưa lớn hay mưa á.

Đức Phật Nārada sau khi nhận biết rằng nếu Ngài i nhiếp phục long vương Doṇa thì sẽ có nhiều chúng sanh ược giác ngộ Đạo Quả và Niết bàn, nhờ túc duyên mà họ ã gieo tạo trong quá khứ. Do ó, Đức Phật i ến chỗ ngụ của long vương cùng chúng tỳ khưu theo hầu.

Dân chúng yêu cầu Ngài ừng i ến ó: “Thưa Đức Phật quang vinh, ở ây có vị long vương rất hung dữ và hùng mạnh cai quản vùng này. Xin ừng ến ấy, e rằng Ngài sẽ bị hại.” Tuy nhiên, Đức Phật vẫn i tựa như không nghe thấy lời nài nỉ của họ và ngồi trên bảo tọa ược kết bằng hoa dành cho long vương.

Dân chúng kéo ến, nghĩ rằng: “Giờ chúng ta sẽ chứng kiến cuộc chiến giữa Đức Phật, chúa của Thánh hiền, và long vương Doṇa.” Khi trông thấy Đức Phật ang ngồi trên bảo tọa bằng hoa dành cho mình, long vương không thể kiềm chế cơn giận dữ ang sôi sục trong người, bèn hiện ra và phun khói mù mịt. Đức Phật cũng dùng thần thông phun khói áp trả. Rồi long vương phun ra những ngọn lửa lớn, Đức Phật cũng áp lại bằng những ngọn lửa lớn. Bị những ngọn lửa nóng hơn phát ra từ Đức Phật, long vương không thể chịu ựng nổi, bèn nghĩ rằng: “Ta sẽ giết chết vị ại Sa-môn này bằng chất ộc của ta.” Rồi long vương phun ộc.

Dầu chất ộc của long vương có khả năng tiêu diệt toàn cõi Diêm phù ề, tuy nhiên nó không ủ sức ể làm hại ngay cả một sợi lông trên người của Đức Phật. Long vương ngạc nhiên: “Vị ại Sa-môn này có oai lực như thế nào? Vị ấy là ai?” Khi dò xét như vậy, long vương nhìn thấy gương mặt bình thản của Đức Phật, sáng chói bởi hào quang sáu màu như mặt trời, như trăng rằm của tháng mười  giữa mùa thu. Rồi vị ấy tự nghĩ: “Vị ại Sa-môn này quả thật có oai lực; không lượng ược sức mình, ta ã cư xử không phải với Ngài.” Long vương bèn sám hối và quy y Phật. Sau khi nhiếp phục long vương, Đức Phật thị hiện Song thông gồm nước và lửa ể khơi dậy niềm tịnh tín của hội chúng ang tụ họp ở ó. Lúc bấy giờ có chín trăm ngàn triệu nhân loại và chư thiên ược an trú trong ạo quả A-la-hán.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ hai) 

Một dịp khác, Đức Phật Nārada ban lời giáo giới ến con trai của Ngài, hoàng tử Nanduttara. Tám chục ngàn chư thiên và nhân loại chứng ạt pháp tối thượng là Đạo Quả và Niết bàn.

     (Đây là Dhammābhisamaya lần thứ ba)

Ba kỳ ại hội Thánh Tăng – Sannipāta 

Có ba kỳ Đại hội Thánh Tăng ệ tử của Đức Phật Nārada. Kỳ thứ nhất diễn ra ở thành phố Thulla-kotthita, ở ó hai vị Bà-la-môn ại ệ tử tương lai, Bhaddasāla và Vijitamitta ến yết kiến Đức Phật Nārada khi Ngài ang ngồi giữa hội chúng. Họ ang tìm kiếm hồ nước Pháp bất tử. Khi hai chàng trai trông thấy ba mươi hai hảo tướng của bậc ại nhân trên người của Đức Phật, họ kết luận rằng: “Đây chắc chắn là Đức Phật, bậc ã oạn diệt màn êm vô minh của thế gian”. Sau khi khởi tâm tịnh tín ối với Đức Phật, họ cùng với tùy tùng xuất gia trở thành những vị tỳ khưu. Sau khi an trú họ trong thánh quả A-la-hán, Đức Phật tụng Ovāda Pāṭimokkha giữa hội chúng gồm mười trăm ngàn triệu tỳ khưu.

 (Đây là Sannipāta lần thứ nhất)

Một dịp khác, trong hội chúng gồm những quyến thuộc của Ngài, Đức Phật Nārada kể lại câu chuyện về cuộc ời của Ngài bắt ầu từ khi Ngài phát nguyện thành Phật. Khi ấy có mặt chín trăm ngàn triệu vị A-la-hán.

(Đây là Sannipāta lần thứ hai)

Lại một dịp khác, khi Đức Phật Nārada nhiếp phục long vương Mahādoṇa, chúa rồng Verocana khởi tâm tịnh tín ối với Đức Phật, ã hóa ra một giả ốc to lớn bằng bảy báu, rộng ba gāvuta, rồi thỉnh Đức Phật và chúng Tăng vào an ngự trong ó. Vị ấy cũng mời các quan của mình cùng dân chúng ịa phương ến viếng giả ốc. Sau khi cho các nữ rồng ăn mặc xinh ẹp và trang sức lộng lẫy múa hát ể cúng dường Đức Phật, long vương ã bố thí vật thực một cách dồi dào ến Đức Phật và chúng Tăng.

Sau buổi thọ thực, Đức Phật thuyết pháp ể tán dương sự cúng dường vật thực ấy. Sau khi nghe pháp, dân chúng khởi tâm tịnh tín nơi Đức Phật và xin xuất gia Sa-môn. Đức Phật truyền phép xuất gia Thiện lai tỳ khưu ến họ và giữa hội chúng gồm tám triệu vị Thiện lai tỳ khưu, Đức Phật tụng Ovāda Pāṭimokkha.

 (Đây là Sannipāta lần thứ ba)

                        Bồ tát Gotama làm ẩn sĩ và ược 

                              Đức Phật Nārada thọ ký 

Lúc bấy giờ Bồ tát của chúng ta là một ẩn sĩ sống trong một ẩn xá tại Hy mã lạp sơn, ã chứng ắc Bát thiền (Samāpatti)  và Ngũ thông (Anhiññā). Vì lòng bi mẫn ối với Bồ tát ạo sĩ, Đức Phật Nārada ã ến viếng ẩn xá cùng với tám trăm triệu cư sĩ, tất cả ều là những vị A-na-hàm (Anāgāmī).

Ẩn sĩ rất vui sướng ược gặp Đức Phật. Rồi vị ấy tạo ra một chỗ ngụ khác dành cho Đức Phật và chúng tỳ khưu. Suốt êm ẩn sĩ tán dương tất cả những ân ức của Đức Phật và nghe Ngài thuyết pháp. Sáng hôm sau ẩn sĩ i ến cõi Bắc Câu Lưu Châu (bằng thần thông) em về món cơm và những loại vật thực khác dâng cúng ến Đức Phật và chúng ệ tử xuất gia và tại gia của Ngài.

Bồ tát ã cúng dường vật thực theo cách như thế trong bảy ngày và ể tỏ lòng tôn kính vô hạn ến Đức Phật, vị ấy ã dâng ến Ngài miếng gỗ chiên àn vô giá lấy từ Hy-mã-lạp-sơn. Đức Phật sau khi ban bài pháp thọai ã công bố lời tiên tri: “Trong tương lai người này chắc chắn sẽ thành Phật.”

Nghe lời tiên tri của Đức Phật, Bồ tát rất vui sướng và nguyện thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật càng tinh tấn hơn.

Những chi tiết ặc biệt về Đức Phật Nārada 

Nơi sanh của Đức Phật Nārada là Dhaññavatī, cha là Chuyển luân vương Sudeva và mẹ là hoàng hậu Anomā.

Ngài cai trị vương quốc trong chín ngàn năm, ba cung iện của Ngài là Jita, Vajita và Abhirama.

Chánh hậu là Vijisenā với bốn mươi ba ngàn cung nữ hầu hạ. Con trai là hoàng tử Nanduttara.

Sau khi thấy bốn iều tướng, Ngài i xuất gia bằng cách i bộ mà không cần phương tiện chuyên chở nào. Ngài thực hành khổ hạnh trong bảy ngày.

Hai vị ại ệ tử là trưởng lão Bhaddasāla và trưởng lão Vijitamitta. Thị giả là trưởng lão Vāseṭṭha.

Hai ại ệ tử nữ là trưởng lão ni Uttarā và trưởng lão ni Phaggunī. Cây giác ngộ là cây Sona.

Hai cận sự nam bậc thánh là trưởng giả Uggarinda và trưởng giả Vasabha, hai cận sự nữ bậc thánh là Ưu-bà-di Indāvarī và Ưu-bà-di Vaṇḍī (Gandī).

Đức Phật Nārada cao tám mươi tám hắc tay. Ngài là bậc chí tôn trong mười ngàn thế giới thuộc sanh ản sát thổ (jātikhetta), giống như cột trụ bằng vàng ược dựng lên làm vật thờ cúng. Ngoài ra, thân Ngài phát hào quang xa một do tuần cả ngày lẫn êm không gián oạn.

Khi Đức Phật Nārada còn tại tiền, do thân Ngài thường xuyên phát ra hào quang rực rỡ nên dân chúng cư ngụ quanh một do tuần không cần phải dùng ến èn uốc.

Thọ mạng trong thời của Đức Phật Nārada là chín chục ngàn năm, sống trong suốt bốn phần năm của thọ mạng, Ngài ã cứu vớt vô số chúng sanh gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên ra khỏi biển luân hồi và ặt họ bên kia bờ Niết bàn.

Như bầu trời rực rỡ các vì sao, giáo pháp của Đức Phật Nārada sáng chói bóng y vàng của những vị A-la-hán.

Đối với những người (ngoài những bậc A-la-hán) vẫn còn là phàm phu và bậc hữu học (sekkhā), Đức Phật Nārada bắt chiếc cầu Thánh ạo (Magga) cho họ vượt qua dòng nước luân hồi. Sau khi ã làm tất cả phận sự của một vị Phật, Ngài viên tịch ại Niết bàn cùng với chư Thánh Tăng A-la-hán.

Kinh cảm quán

Đức Phật Nārada, bậc ngang bằng với chư Phật Vô thượng tôn và những vị A-la-hán, những bậc có năng lực vô song, tất cả ều biến mất. Tất cả các pháp hữu vi quả thật vô dụng, không thực chất! 

Bảo tháp 

Như vậy, Đức Phật Nārada, bậc chiến thắng ngũ ma, ã viên tịch ại Niết bàn tại thành phố Sudassana. Cũng tại thành phố ấy, một bảo tháp cao bốn do tuần ược dựng lên dành cho Đức Phật Nārada.

Kết thúc lịch sử Đức Phật Nārada -  Nārada Buddhavaṃsa

]œ

 

10. Padumuttara Buddhavaṁsa  (Lịch sử Đức Phật Padumuttara) 

Kiếp có một vị Phật xuất hiện gọi là Sāra kappa, kiếp có hai vị Phật gọi là Manda kappa, kiếp có ba vị Phật gọi là Vara kappa, kiếp có bốn vị Phật thì gọi là Sāramanda, kiếp Bhaddaka kappa có năm vị Phật; nếu không có vị Phật nào thì ó là kiếp Suñña (Không kiếp).

Do ó, ại kiếp có ba vị Phật xuất hiện, ó là Đức Phật Anomadassī, Đức Phật Paduma và Đức Phật Nārada, thì ược gọi là Vara kappa.

Sau ại kiếp Vara kappa có ba vị Phật xuất hiện ã kết thúc, thì vô số A-tăng-kỳ kiếp trôi qua. Rồi trong một ại kiếp cách ây một trăm ngàn ại kiếp, Đức Phật Padumuttara (Tối thắng Bạch liên) xuất hiện.

(Đại kiếp ặc biệt này là ại kiếp Sāra kappa vì chỉ có một vị Phật xuất hiện - Đức Phật Padumuttara. Tuy nhiên nó giống như kiếp Manda kappa có hai vị Phật vì những nét ặc thù của nó. Trong ại kiếp của Đức Phật Padumuttara, loài người có rất nhiều phước).

Lịch sử về sự xuất hiện của Đức Phật Padumuttara như sau - Sau khi ã thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật, Bồ tát Padumuttara tái sanh vào cung trời Đâu suất à (Tusita) theo truyền thống của chư vị Bồ tát. Nhận lời thỉnh cầu của chư thiên và Phạm thiên, Ngài xuống cõi nhân loại và thọ sanh vào lòng bà Sujātā, hoàng hậu của vua Ananda, tại kinh ô Haṁsavatī. Bồ tát ản sanh tại vườn thượng uyển Haṁsavatī sau mười tháng.

Khi Thái tử Padumuttara ản sanh, có ám mưa hoa sen Paduma rơi xuống nên quyến thuộc ặt tên cho thái tử là Padumuttara.

Đời sống ở vương cung 

Khi ến tuổi trưởng thành, Thái tử Padumuttara thọ hưởng cuộc sống ế vương giống như ở cõi chư thiên, sống mười ngàn năm trong ba cung iện Naravahana, Yasavahana và Vasavatti, ược hầu hạ bởi một trăm hai chục ngàn cung nữ dẫn ầu là chánh hậu Vasudattā.

Sự xuất gia 

Khi Thái tử Padumuttara ang sống cuộc ời ế vương, thì công nương Vasudattā hạ sanh một hoàng nam tên là Uttara. Trông thấy bốn iềm tướng Ngài quyết ịnh xuất gia từ bỏ thế gian. Ngay khi Ngài vừa quyết ịnh như vậy thì cung iện Vasavatti tự quay tròn và bay lên không trung rồi di chuyển như các vì sao và những thiên thể khác, và áp xuống ất với cây ại bồ ề xuất hiện giữa trung tâm.

Bồ tát từ trên cung iện bước xuống và mặc vào bộ y hoa sen do Phạm thiên dâng cúng và trở thành vị Sa-môn ngay cung iện ấy. Cung iện trở lại kinh ô và áp xuống chỗ cũ của nó. Tất cả những người i chung với Bồ tát ều trở thành Sa-môn, ngoại trừ nữ giới.

Sự thành ạo 

Bồ tát Padumuttara cùng với ồ chúng sa-môn thực hành pháp khổ hạnh trong bảy ngày. Vào ngày rằm tháng tư, ngày thành ạo của Ngài, Bồ tát ộ món cơm sữa do Rucanandā dâng cúng, con gái của vị trưởng giả ở ngôi làng Ujjeni Nigama. Sau khi trải qua suốt ngày ở rừng cây sa-la, ến chiều Ngài một mình i ến cây ại thọ bồ ề. Trên ường i, Ngài nhận tám nắm cỏ do một người dị giáo tên Sumitta dâng cúng và ngay khi mớ cỏ ược trải ra dưới cội cây bồ ề thì Vô ịch bảo toạ cao ba mươi tám hắc tay xuất hiện. Ngồi kiết già trên bảo toạ, Ngài vận dụng bốn mức ộ tinh tấn và chiến thắng binh ma. Ngài chứng ắc Túc-mạng-minh (Pubbenivasa ñāṇa) trong canh ầu, Thiên nhãn minh (Dibbacakkhu ñāṇa) trong canh giữa và quán pháp Duyên khởi (Paticcasamuppāda) trong canh ba. Sau khi quán xong, Bồ tát nhập vào Tứ thiền, rồi xuất khỏi tứ thiền và quán năm uẩn với các ặc tánh của chúng. Bằng Sanh diệt trí  (udayabbaya ñāṇa) của các pháp hữu vi, Ngài quán tánh vô thường của chúng theo 50 cách.

[Mười cách cho mỗi uẩn. Mười cách ược nêu ra trong bộ Chú giải Paṭisambhidā Magga như sau: Vô thường (anicca), suy họai (paloka), không bền vững (cala), họai diệt (pabhangu), không chắc chắn (addhuva), hay thay ổi (viparināma dhamma), không có thực chất (asara), có tánh rỗng không (vibhava) và có thể tử vong bất cứ lúc nào (marana dhamma).]

]

Và phát triển Tuệ quán ến Chuyển tộc tuệ (Gotrabhū-ñāṇa - trí tuệ vượt qua những trói buộc của thế gian). Qua Thánh Đạo (Ariya Magga), Ngài chứng ngộ tất cả mọi ân ức của chư Phật (tức là Ngài chứng ắc Phật quả) và thốt lên cảm hứng kệ “Anekajāti saṃsāraṃ... tanhanaṃ khayamajjhajā.”  Đây là thông lệ của chư Phật.

Khi Bồ tát vừa thành Phật thì mưa hoa sen ổ xuống tựa như ể tô iểm vạn vật trong mười ngàn thế giới.

Điều ặc biệt áng chú ý ở ây là:

Sau khi thành bậc Chánh ẳng giác, Đức Phật trú trong thiền quả (phala-samāpatti) bảy ngày dưới cội cây bồ ề (trong tuần lễ ầu tiên). Vào ngày thứ tám Ngài nghĩ sẽ ặt chân xuống ất, và khi chân phải của Ngài vừa chạm ất thì những hoa sen Paduma bỗng nhiên từ dưới ất hiện lên một cách diệu kỳ, ỡ lấy bàn chân của Ngài.

Mỗi lá sen rộng chín hắc tay, mỗi sợi phấn hoa dài từ mười hai ến ba mươi hắc tay, và mỗi hoa sen có lượng phấn có thể ổ ầy chín cái chum ựng nước.

Đức Phật Padumuttara cao năm mươi tám hắc tay; kích thước giữa hai cánh tay là mười tám hắc tay. Trán của Ngài rộng năm hắc tay và mỗi bàn chân, bàn tay rộng mười một hắc tay. Khi Đức Phật bước trên mỗi hoa sen thì phấn của hoa phủ lấy toàn thân của Ngài. Chính vì ặc iểm này mà Đức Phật có danh hiệu là Padumuttara.

 (Đây là bài mô tả của bộ Samyutta Nikāya).

Ba Thắng thời thuyết pháp của Đức Phật Padumuttara   (Dhammābhisamaya) 

Sau khi thành ạo, Đức Phật Padumuttara trải qua bốn mươi chín ngày, ở bảy chỗ quanh khu vực cây ại thọ bồ ề (Salala). Và sau khi suy xét nên thuyết ến ai trước, Ngài trông thấy hai vị hoàng tử Devala và Sujata (hai Đại ệ tử tương lai), họ là những người có ủ túc duyên ể chứng ắc Đạo Quả và Niết bàn. Khi suy xét về chỗ ngụ của họ và biết rằng họ ang trú ngụ ở Mithilā, Ngài em theo y bát và vận dụng thần thông lập tức xuất hiện nơi ngụ của họ.

Rồi Đức Phật Padumuttara bảo người giữ vườn i gọi hai vị hoàng tử. Nghe tin, họ bàn luận với nhau rằng: “Thái tử Padumuttara, con trai của cậu chúng ta, sau khi thành Phật ã ến tại thành phố Mithila. Bây giờ chúng ta sẽ ến yết kiến Ngài.” Rồi cùng với tùy tùng, họ i ến Đức Phật và ngồi xuống ở chỗ thích hợp.

Đức Phật xuất hiện rực rỡ giữa những vị hoàng tử quanh Ngài như trăng rằm giữa các vì sao, và thuyết bài kinh Chuyển pháp luân ến hội chúng gồm nhân loại và chư thiên do hai hoàng tử dẫn ầu. Trong dịp này có mười trăm ngàn triệu chư thiên và nhân loại chứng ắc Đạo Quả và Niết bàn.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ nhất) 

Một dịp khác, ạo sĩ Sarada, người xuất hiện trước Đức Phật Padumuttara, ã thuyết giảng ến tín ồ của vị ấy về các chủ thuyết mà sẽ dẫn ến tái sanh khổ cảnh. Đức Phật i ến hội chúng của Sarada và thuyết giảng giáo pháp của Ngài ến ông ảo mọi người, chỉ ra những nguy hiểm của sự tái sanh trong ịa ngục. Trong dịp ấy có ba triệu bảy trăm ngàn chư thiên và nhân loại,  gồm cả những tín ồ của ạo sĩ Sarada, tất cả ều chứng ắc Đạo Quả và Niết bàn.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ hai) 

Lại một dịp khác, trong khi Đức Phật Padumuttara ang ngụ ở Mithilā thì phụ vương của Ngài, vua Ānanda, bèn sai hai mươi ngàn người i thỉnh Đức Phật về kinh ô Haṃsavatī. Sau khi thuyết pháp, trước hai chục vị quan và hai chục ngàn tùy tùng, Đức Phật bèn gọi: “Hãy ến, này các tỳ khưu” - tất cả họ ều trở thành những vị Thiện lai tỳ khưu. Được tháp tùng bởi những vị tỳ khưu này, Đức Phật lên ường i ến Haṃsavatī và trú ngụ tại kinh ô ể làm tăng trưởng tinh thần cho phụ vương.

Giống như Đức Phật Gotama của chúng ta viếng thăm Kapilavatthu và kể lại lịch sử của chư Phật quá khứ giữa hội chúng quyến thuộc, Đức Phật Padumuttara cũng thuyết Buddhavaṃsa giữa hội chúng quyến thuộc của Ngài trong khi ang i lại trên con ường châu báu giữa hư không. Lúc bấy giờ, có năm triệu chư thiên và nhân loại chứng ắc Đạo Quả và Niết bàn.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ ba) 

Ba kỳ ại hội Thánh Tăng – Sannipāta 

Đại hội của chư Thánh Tăng ệ tử của Đức Phật Padumuttara cũng diễn ra ba lần. Ở kỳ ại hội thứ nhất, Đức Phật Padumuttara ã tụng Ovāda Pātimokkha giữa hội chúng gồm mười trăm ngàn triệu vị Thiện lai tỳ khưu, vào ngày rằm tháng Magha, trong khu vườn ở gần thành phố Mithilā.

 (Đây là Sannipāta lần thứ nhất)

Một dịp khác, sau khi an cư kiết hạ ở trên núi Vebhāra, Đức Phật ã thuyết pháp tế ộ cho nhiều người ến với Ngài. Khi ược Đức Phật gọi: “Hãy ến, này các tỳ khưu.” - có chín trăm triệu người trở thành Thiện lai tỳ khưu. Rồi Đức Phật tụng Ovāda Pātimokkha giữa hội chúng tỳ khưu này.

 (Đây là Sannipāta lần thứ hai)

Lại một dịp khác, Đức Phật Padumuttara, Thế tôn của ba cõi, trong khi ang du hành ể giúp ỡ chúng sanh thoát khỏi các xiềng xích của phiền não, ã tụng Ovāda Pātimokkha giữa hội chúng gồm tám chục ngàn vị tỳ khưu - là những cư sĩ ra i xuất gia từ nhiều làng mạc. thị trấn, châu quận và quốc ộ khác nhau.

(Đây là Sannipāta lần thứ ba)

Bồ tát Gotama làm quan Tổng ốc Phủ doãn,         ược Đức Phật Padumuttara thọ ký 

Lúc bấy giờ Bồ tát Gotama của chúng ta là một vị quan Tổng ốc Phủ doãn, tên là Jālita, rất giàu có. Vị ấy tổ chức bố thí to lớn gồm vật thực và y phục ến chúng Tăng có Đức Phật chủ tọa. Sau khi thuyết pháp tán dương công ức bố thí của Bồ tát, Đức Phật công bố lời tiên tri: “Sau một trăm ngàn ại kiếp nữa, người này chắc chắn sẽ thành một vị Phật danh hiệu là Gotama.”

Nghe lời tiên tri của Đức Phật, Bồ tát vô cùng vui sướng và quyết tâm thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật càng tinh tấn hơn.

Những ặc iểm khác thường trong thời kỳ Đức Phật Padumuttara 

Khi Đức Phật Padumuttara xuất hiện, các ngoại ạo sư vì chấp chặt tà kiến nên sầu khổ, mất quyền lực và bị suy tàn. Họ không nhận ược sự tôn kính cúng dường và những iều tương tự khác. Trên thực tế, họ bị trục xuất ra khỏi bất cứ chỗ nào mà họ ến.

Rồi các ngoại ạo sư gặp nhau và cùng i ến Đức Phật với những lời này: “Bạch Đức Thế Tôn, bậc anh hùng, bậc tinh tấn ệ nhất, xin Ngài hãy làm nơi nương tựa của chúng con.”

Đức Phật Padumuttara vì lòng bi mẫn ối với các ngoại ạo sư ã ến với Ngài nên ã an trú họ trong Tam quy và Ngũ giới.

Như vậy trong thời kỳ giáo pháp của Đức Phật Padumuttara không còn các ngoại ạo sư cố chấp tà kiến. Điều kỳ diệu là giáo pháp của Ngài sáng chói bởi những vị A-la-hán ã thành tựu năm pháp tự tại, không bị tác ộng bởi những pháp thăng trầm của thế gian, lại có những ức tánh cao quý như Giới (Sīla), Định (Samādhi), Tuệ (Paññā) và Nhẫn nại (Khantī).

Những chi tiết ặc biệt của Đức Phật Padumuttara 

Nơi sanh của Đức Phật Padumuttara là kinh ô Haṃsavatī, phụ vương là vua Ānanda và mẫu hậu là hoàng hậu Sujātā. 

Ngài trị vì vương quốc trong mười ngàn năm. Ba cung iện của Ngài là Naravāhana, Yasavāhana và Vasavattī.

Chánh hậu Vasudattā có bốn mươi ba ngàn cung nữ hầu hạ. Con trai là hoàng tử Uttara.

(Trong bài “Đời sống ở vương cung” thì số cung nữ hầu hạ là một trăm hai chục ngàn, nhưng ở ây con số ược nêu ra là bốn mươi ba ngàn - hai con số này xem ra không nhất quán. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng con số trước là tổng số cung nữ hầu hạ công chúa, còn con số sau là số cung nữ của mỗi ợt hầu hạ công chúa trong một thời gian nào ó).

Phương tiện chuyên chở Bồ tát i xuất gia sau khi trông thấy bốn iềm tướng là cung iện. Ngài thực hành khổ hạnh trong bảy ngày.

Hai ại ệ tử là trưởng lão Devala và trưởng lão Sujāta. Thị giả là trưởng lão Sumana.

Hai ại ệ tử nữ là trưởng lão ni Amitā và trưởng lão ni Asamā. Cây giác ngộ là cây Salala.

Hai cận sự nam bậc thánh là hai vị trưởng giả Vitiṇṇa và Tissa. Hai cận sự nữ bậc thánh là Ưu bà di Haṭṭhā và Ưu bà di Vicittā.

Đức Phật Padumuttara cao năm mươi tám hắc tay.Với ba mươi hai hảo tướng của bậc ại nhân, Ngài giống như cột trụ bằng vàng ược dựng lên ể mọi người chiêm bái.

Hào quang từ thân Đức Phật tỏa ra không bị ngăn cản bởi những cánh cửa, vách tường, cây cối, ồi núi, v.v.... Thực tế, hào quang ấy chiếu sáng xa mười hai do tuần.

Thọ mạng trong thời kỳ của Đức Phật Padumuttara là một trăm ngàn năm. Suốt tám chục ngàn năm, tức bốn phần năm của thọ mạng, Ngài ã cứu vớt cho vô số chúng sanh gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên ra khỏi biển trầm luân và ặt họ trên bờ của Niết bàn.

Kinh cảm quán 

Sau khi oạn tận tất cả mọi hoài nghi trong chúng sanh mà Ngài ộ ến Niết bàn, Đức Phật Padumuttara cùng với chúng Thanh văn ệ tử của Ngài i ến chỗ kết thúc sanh hữu (giống như khối lửa lớn vụt tắt sau khi ã cháy sáng rực rỡ)!

Bảo tháp 

Như vậy Đức Phật Padumuttara, Bậc Chiến thắng ngũ ma, ã viên tịch Đại Niết bàn tại khu vườn Nanda. Cũng tại khu vườn ấy, một bảo tháp cao mười hai do tuần ược xây dựng ể cúng dường Đức Phật.

Kết thúc lịch sử Đức Phật Padumuttara - Padumuttara Buddhavaṃsa

]œ

 

11.  Sumedha Buddhavaṁsa (Lịch sử Đức Phật Sumedha)

Sau quãng thời gian của ại kiếp mà trong ó Đức Phật Padumuttara xuất hiện, trải qua bảy chục ngàn Không kiếp (Suñña kappa – kiếp không có chư Phật). Rồi vào một ại kiếp cách ây ba chục ngàn ại kiếp xuất hiện hai vị Phật: Sumedha và Sujata (Manda kappa - kiếp có hai vị Phật).

Trong hai vị Phật này, vị Sumedha, sau khi ã thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật khi là Bồ tát, Ngài tái sanh vào cung trời Đâu suất à theo úng truyền thống của chư vị Bồ tát. Nhận lời thỉnh cầu của chư thiên và Phạm thiên ể thành Phật, Ngài xuống cõi nhân loại và thọ sanh vào lòng bà Sudattā, hoàng hậu của vua Sudatta. Mười tháng trôi qua, Bồ tát ản sanh tại vườn thượng uyển Sudassana.

Đời sống ở vương cung 

Khi ến tuổi trưởng thành, thái tử Sumedha sống trong ba cung iện Sucandana, Kancana và Sirivaddhana, ược hầu hạ bởi bốn mươi tám ngàn cung nữ dẫn ầu là chánh hậu Sumana. Như vậy Bồ tát thọ hưởng cuộc ời ế vương giống như ở cõi chư thiên trong chín ngàn năm.

Sự xuất gia 

Khi ang thọ hưởng cuộc ời ế vương như vậy thì chánh hậu Sumanā hạ sanh một hoàng nam tên là Punabbasu. Thấy bốn iềm tướng, Ngài ra i xuất gia cỡi trên con voi kiết tường và trở thành vị Sa-môn. Theo gương của Ngài, một ngàn triệu người khác cũng trở thành Sa-môn.

Sự thành ạo 

Bồ tát Sumedha thực hành khổ hạnh cùng với một ngàn triệu vị samôn trong mười lăm ngày (theo bài kệ tiếng Sinhalese thì thời gian là tám tháng). Vào ngày rằm tháng tư, ngày Thành ạo, Ngài ộ món cơm sữa do Nakulā dâng cúng, con gái của vị trưởng giả ở ngôi làng Nakula và trải qua suốt ngày trong rừng cây sala của ngôi làng ấy.

Đến chiều Ngài rời ồ chúng và một mình i ến ại thọ bồ ề. Trên ường i, Ngài nhận tám nắm cỏ do một người dị giáo tên Sirivaddhana dâng cúng. Mớ cỏ vừa ược rải xuống cội cây bồ ề thì Vô ịch bảo tọa cao năm mươi bảy hắc tay từ dưới ất hiện lên. Ngồi kiết già trên bồ oàn giác ngộ, Bồ tát vận dụng bốn mức ộ Tinh tấn, chiến thắng và chứng ắc Phật quả, thành bậc Chánh biến tri, Thế Tôn của ba cõi.

         Ba Thắng thời thuyết pháp của Đức Phật Sumedha  

                               (Dhammābhisamaya)

Sau khi thành ạo, Đức Phật Sumedha trải qua bốn mươi chín ngày ở bảy chỗ gần cây Đại bồ ề. Nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, Ngài xem xét nên thuyết pháp tế ộ ai trước và thấy hai người em khác mẹ, hoàng tử Sarana và hoàng tử Sabbakama (là hai Đại ệ tử tương lai) và một ngàn vị Sa-môn ã từng xuất gia chung với Ngài. Đức Phật mang y bát và vận dụng thần thông lập tức xuất hiện nơi ngụ của họ, ở vườn thượng uyển Sudassana gần kinh ô Sudassana.

Thấy Đức Phật i ến từ xa, một ngàn triệu vị Sa-môn khởi tâm tịnh tín và ón tiếp Ngài một cách chu áo, thỉnh lấy y bát, sắp xếp chỗ ngồi trang trọng, thỉnh Ngài an tọa rồi cùng nhau ảnh lễ và ngồi xuống quanh Ngài. Khi ấy Đức Phật bảo người giữ vườn i gọi hai vị hoàng tử. Khi có mặt ông ủ, Đức Phật thuyết bài kinh Chuyển pháp luân  (Dhammacakkapavattana Sutta) ến tất cả, bao gồm nhân loại và chư thiên - có mười trăm ngàn triệu chư thiên và nhân loại chứng ắc Đạo Quả và Niết bàn.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ nhất)

Một dịp khác, sau khi nhập vào Đại bi ịnh (Mahā-karunā samapatti)  vào buổi sáng và dò xét những chúng sanh nào có ủ căn duyên ể thành ạt giải thoát, Đức Phật trông thấy một Dạ xoa tên là Kumbhakaṇṇa - một con quỉ ăn thịt người có tướng mạo dữ tợn, xuất hiện ở lối vào khu rừng rậm, làm cho những lối i trong khu rừng trở nên hoang vắng. Đức Phật Sumedha một mình i ến chỗ ngụ của Dạxoa. Ngài i vào, ngồi trên chỗ ngồi ã ược sắp sẵn.

Dạ xoa Kumbhakaṇṇa rất phẫn nộ giống như một con rắn ộc bị ánh bởi cây gậy và ể e dọa Đức Phật, dạ xoa hóa ra hình tướng hung tợn với cái ầu như quả núi; ôi mắt mở lớn và rực lửa như những tia sáng của mặt trời; hai cái nanh dài và lớn như hai lưỡi cày; lớp da bụng của nó có màu xanh ậm, lòng thòng lắc lư; cái mũi của nó cúp xuống ở giữa trông rất dị hợm; miệng thì há hốc và ỏ lòm như hốc núi á; tóc thì bù xù rậm rạp. Với hình tướng ầy kinh khiếp, dạ xoa ứng trước Đức Phật, phun khói và lửa ến Ngài và tưới xuống cơn mưa á, lửa, nước nóng, bùn nóng, tro nóng, khí giới, than ỏ và cát nóng. Với cơn mưa gồm chín loại khí giới này, dạ xoa cũng không thể làm gì ược Đức Phật, ngay cả chạm ến một sợi lông trên thân của Ngài. Dạ xoa suy nghĩ: “Ta sẽ giết vị ại Sa-môn này bằng cách ặt ra một câu hỏi.” Dạ xoa nêu câu hỏi giống như câu hỏi của dạ xoa Ālavaka. Sau khi giải áp thỏa áng câu hỏi, Đức Phật ã nhiếp phục ược dạ xoa.

Ngày hôm sau, ngày mà ứa con trai của nhà cai trị vùng lân cận sẽ ược giao nạp cho dạ xoa, dân chúng em vật thực cả cỗ xe bò cùng vị hoàng tử và dâng ến dạ xoa. Dạ xoa bèn trao vị hoàng tử cho Đức Phật. Nghe tin tốt lành, dân chúng ang ứng ợi ở cổng rừng bèn i ến Đức Phật. Trong hội chúng ấy, Đức Phật ã thuyết pháp thích hợp với căn tánh của dạ xoa và giúp chín trăm triệu chúng sanh chứng ắc Đạo Quả giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ hai)

Vào một dịp khác, Đức Phật Sumedha thuyết giảng Tứ Diệu Đế ến chư thiên và nhân loại tại khu rừng của xứ Sirinandana, gần thành phố Upakari. Lúc bấy giờ có tám trăm ngàn triệu chúng sanh chứng ắc Đạo Quả giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ ba).

Ba kỳ ại hội Thánh Tăng – Sannipāta 

Có ba kỳ ại hội chư Tăng ệ tử Phật. Ở ại hội thứ nhất, Đức Phật ở tại thành phố Sudassana. Khi ấy có một ngàn triệu vị A-la-hán ến tham dự.

 (Đây là Sannipāta thứ nhất)

Vào một dịp khác, Đức Phật an cư kiết hạ ở trên núi Deva. Khi lễ Kaṭhina ược tổ chức sau mùa an cư, có chín trăm triệu vị tỳ khưu tụ hội.

(Đây là Sannipāta lần thứ hai)

Lại một dịp khác Đức Phật lên ường hóa ộ chúng sanh. Khi ấy tám trăm triệu vị tỳ khưu theo hầu Đức Phật ã tụ hội.

(Đây là Sannipāta lần thứ ba)

                   Bồ tát Gotama là thanh niên Uttara ược 

                              Đức Phật Sumedha thọ ký 

Lúc bấy giờ Bồ tát của chúng ta là một thanh niên tên Uttara (Tối thượng), nghĩa là người vượt trội kẻ khác về các giới ức. Vị ấy cúng dường ến chư Tăng có Đức Phật chủ tọa với số tài sản ược tích lũy trị giá tám trăm triệu ồng tiền vàng. Sau khi nghe pháp của Đức Phật, Bồ tát quy y Tam bảo và trở thành vị tỳ khưu trong giáo pháp của Đức Phật. Sau thời pháp thoại tán dương công ức Bồ tát này, Đức Phật Sumedha công bố lời tiên tri: “Chàng trai Uttara này quả thật sẽ thành một vị Phật danh hiệu là Gotama.”

Nghe lời tiên tri của Đức Phật, Bồ tát vô cùng vui sướng và quyết tâm thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật nhiều hơn nữa.

Uttara trở thành vị tỳ khưu và gánh vác nhiều phận sự trong giáo pháp của Đức Phật. Vị ấy thông suốt Tam tạng gồm Kinh và Luật, làm cho giáo pháp của Đức Phật sáng chói hơn.

Nhờ tu tập chánh niệm, phát triển các Sa-môn hạnh, thực hành pháp Đầu à ngăn oai nghi nằm (chỉ ngồi, i và ứng), Bồ tát không chỉ chứng ắc Bát thiền mà còn thành ạt Ngũ thông. Thế nên, sau khi thân họai mạng chung, Ngài tái sanh vào Phạm thiên giới.

Những chi tiết ặc biệt về Đức Phật Sumedha 

Nơi sanh của Đức Phật Sumedha là Sudassana, phụ vương là vua Sudatta và mẫu hậu là hoàng hậu Sudattā.

Ngài trị vì vương quốc trong chín ngàn năm. Ba cung iện của Ngài là Sucandana, Kañcana và Sirivaḍḍhana.

Chánh hậu là Sumanā, có tám mươi bốn ngàn cung nữ hầu hạ. Con trai là hoàng tử Panabbasu.

Hai ại ệ tử của Đức Phật là trưởng lão Saraṇa và trưởng lão Sabbakāma. Thị giả là trưởng lão Sāgara.

Hai ại ệ tử nữ là trưởng lão ni Ramā và trưởng lão ni Suramā. Cây giác ngộ là cây Mahānīpa.

Hai cận sự nam bậc thánh là trưởng giả Uruvela và trưởng giả Yasavā. Hai cận sự nữ bậc thánh là Ưu bà di Yasodharā và Ưu-bà-di Sirimā.

Đức Phật Sumedha cao tám mươi tám hắc tay. Thân Ngài chiếu hào quang khắp các hướng như mặt trăng chiếu sáng bầu trời và các vì sao của nó.

Hào quang từ thân Ngài tỏa sáng khắp nơi giống như viên hồng ngọc của vị Chuyển luân vương chiếu sáng, xa một do tuần.

Thọ mạng thời kỳ của Đức Phật Sumedha là chín chục ngàn năm, Ngài sống suốt bốn phần năm của thọ mạng cứu vớt vô số chúng sanh gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên ra khỏi ại dương luân hồi và ặt họ bên kia bờ Niết bàn.

Thời kỳ giáo pháp của Đức Phật Sumedha rực rỡ, các vị A-la-hán có mặt ở khắp nơi trong thời kỳ giáo pháp của Ngài, những bậc có Tam minh và Lục thông, tinh tấn không chao ộng trước các pháp thăng trầm của thế gian, có khả năng nhìn các pháp lạc và bất lạc ều như nhau.

                            Kinh cảm quán – Saṁvega  

Tất cả những vị thánh A-la-hán có danh tiếng vô song ều ã thoát khỏi các phiền não và bốn Upadhi, là các nền tảng của kiếp sống. Các bậc A-la-hán Thanh văn ệ tử ấy của Đức Phật Sumedha có ồ chúng ông ảo, tỏa sáng bằng ánh sáng trí tuệ của các Ngài và cuối cùng ã viên tịch ại niết bàn.

Bảo tháp 

Như vậy Đức Phật Sumedha, Bậc Chiến thắng ngũ ma, ã viên tịch ại Niết bàn tại vườn Medha. Xá lợi phân tán theo ý nguyện của Ngài và có mặt khắp cõi Diêm phù ề, ược các hàng chúng sanh gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên ngày êm lễ bái, cúng dường.

Kết thúc lịch sử Đức Phật Sumedha- Sumedha Buddhavaṃsa

]œ

 

12. Sujāta Buddhavaṁsa  (Lịch sử Đức Phật Sujatā) 

 

Sau khi Đức Phật Sumedha viên tịch, thọ mạng của loài người dần dần giảm từ chín chục ngàn tuổi xuống còn mười tuổi, rồi lại tăng dần lên ến A-tăng-kỳ tuổi. Khi thọ mạng của loài người giảm xuống ến chín chục ngàn tuổi thì Bồ tát Sujāta ã thực hành viên mãn các pháp ba-la-mật và tái sanh ở cung trời Đâu-suất-à theo truyền thống của chư vị Bồ tát. Nhận lời thỉnh cầu của chư thiên và Phạm thiên ể thành Phật tế ộ chúng sanh, Ngài giáng sanh xuống cõi nhân loại và thọ sanh vào lòng bà Pabhavatī, hoàng hậu của vua Uggaha, tại kinh ô Sumaṅgala. Sau mười tháng  Bồ tát ản sanh.

Vào ngày ặt tên của thái tử, vì lúc thái tử ra ời, tất cả mọi người ều ược an lạc cả thân lẫn tâm nên các bậc trí tuệ ặt tên cho Ngài là Sujāta (Thiện Sanh).

Đời sống ở vương cung 

Đến tuổi trưởng thành, thái tử sống trong ba cung iện là Siri, Upasiri và Nanda, ược hầu cận chăm sóc bởi công chúa Sirinandā và hai mươi ba ngàn cung nữ của nàng trong chín chục ngàn năm.

Sự xuất gia 

Sau khi Bồ tát trông thấy bốn iềm tướng và khi công chúa Sirinandā ã hạ sanh một hoàng nam tên là Upasena, Ngài i xuất gia cỡi trên con tuấn mã Haṃsavāha và trở thành vị Sa-môn. Mười triệu người noi theo gương của Ngài cũng trở thành những vị Sa-môn.

Sự thành ạo 

Bồ tát Sujāta cùng với mười triệu vị Sa-môn ấy thực hành pháp khổ hạnh trong chín tháng. Vào ngày rằm tháng tư, ngày Thành ạo của Ngài, Bồ tát ộ món cơm sữa do con gái của vị trưởng giả Sirinandana, ở thành phố Sirinanda dâng cúng và trải qua suốt ngày trong rừng cây sala ở gần ó. Buổi chiều Ngài một mình i ến ại thọ bồ ề. Trên ường i, Ngài nhận tám nắm cỏ do một người dị giáo tên Sunanda dâng cúng. Khi Ngài vừa rải mớ cỏ xuống cội cây bồ ề, tức cây Mahā Veḷu, thì Vô ịch bảo tọa cao ba mươi ba hắc tay xuất hiện.

Ngồi kiết già trên bảo tọa, Ngài thể hiện bốn mức ộ tinh tấn, chiến thắng Ma vương và chứng ắc Phật quả, thành bậc Chánh biến tri, Thế Tôn của ba cõi.

         Ba Thắng thời thuyết pháp của Đức Phật Sumedha 

                             (Dhammābhisamaya)  

Sau khi thành ạo, Đức Phật trải qua bốn mươi chín ngày ở bảy chỗ gần cây Bồ-ề. Nhận lời thỉnh cầu của chư thiên, Ngài xem xét nên thuyết pháp tế ộ ai trước và thấy người em trai khác mẹ là hoàng tử Sudassana và chàng thanh niên Sudeva - ứa con trai của vị quốc sư.  Hai chàng trai này ã gieo tạo nhiều phước ức trong quá khứ dẫn ến chứng ắc Đạo Quả và Niết bàn. Đức Phật vận dụng thần thông bay ến vườn Sumaṅgala, gần thành phố Sumaṅgala, bảo người giữ vườn i gọi hoàng tử Sudassana và thanh niên Sudeva. Trước hội chúng gồm chư thiên và nhân loại do hai vị hoàng tử dẫn ầu, Đức Phật thuyết bài kinh Chuyển pháp luân úng với thông lệ của chư Phật quá khứ. Lúc bấy giờ có tám trăm triệu chư thiên và nhân loại chứng ắc giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ nhất)

Một dịp khác, Đức Phật Sujāta ánh bại các ngoại ạo sư bằng cách thị hiện Song thông gồm nước và lửa gần cây Sala, sát với cổng của vườn thượng uyển Sudassana. Khi an cư kiết hạ, ngồi trên tảng á bằng ngọc lục bảo dưới cội cây Pāricchattaka, chỗ ngụ của Đế thích thuộc cõi Đao lợi thiên, Đức Phật thuyết Tạng A-tỳ-àm. Trong dịp ấy có ba triệu bảy trăm ngàn chư thiên và Phạm thiên chứng ắc ạo quả giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ hai)

Lại một dịp khác, Đức Phật Sujāta về thăm phụ vương ở kinh ô Sumaṅgala. Khi ấy có sáu triệu chư thiên và nhân loại chứng ắc Đạo Quả giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ ba)

Ba kỳ ại hội Thánh Tăng – Sannipāta  

Có ba kỳ Đại hội Thánh Tăng ệ tử Đức Phật Sujāta. Kỳ thứ nhất diễn ra ở Sudhamma, gần thành phố Sudhammavatī. Nơi ây, Đức Phật dạy Pháp cho những người ến yết kiến Ngài, thâu nhận sáu triệu người vào Tăng chúng bằng cách truyền phép xuất gia ‘Thiện lai tỳ khưu’ ến họ, rồi Đức Phật tụng Ovāda Pātimokkha giữa hội chúng tỳ khưu ấy.

  (Đây là Sannipāta lần thứ nhất)

Một dịp khác khi Đức Phật i xuống từ cung trời Đao lợi (Tavatiṃsa), một ại hội gồm năm triệu vị tỳ khưu diễn ra.

     (Đây là Sannipāta lần thứ hai)

Lại một dịp khác nữa, khi ại ệ tử cánh tay phải của Đức Phật, trưởng lão Sudassana, dẫn bốn trăm ngàn người ến yết kiến Đức Phật, những người này ã quyết ịnh với nhau là sẽ xuất gia khi nghe tin người em của Đức Phật, hoàng tử Sudassana, ã trở thành vị tỳ khưu trước Đức Phật và ã chứng ắc Đạo Quả A-la-hán. Đức Phật ban lời giáo huấn ến họ, tế ộ họ thành những vị Thiện lai tỳ khưu và tụng Ovāda Pātimokkha giữa hội chúng có bốn ặc tánh ấy.

     (Đây là Sannipāta lần thứ ba)

           Bồ tát Gotama là vị Chuyển luân vương và ược 

                           Đức Phật Sujāta thọ ký 

Lúc bấy giờ Bồ tát của chúng ta là vị Chuyển luân vương, nghe tin Đức Phật ã xuất hiện trong thế gian, vị ấy i ến Đức Phật, nghe pháp, dâng hiến vương quyền cùng với bảy loại vật báu ến chúng Tăng có Đức Phật chủ tọa, rồi trở thành vị Sa-môn. Dân cư xứ Diêm phù ề tự nguyện làm người hộ ộ chúng Tăng, thâu thuế và lấy ó ể phục vụ Đức Phật và chúng Tăng qua hình thức bốn món vật dụng: vật thực, y phục, chỗ ngụ và thuốc men.

Rồi Đức Phật Sujāta công bố lời tiên tri: “Trong tương lai người này sẽ thành một vị Phật, danh hiệu là Gotama.”

Khi ược Đức Phật thọ ký, Bồ tát vô cùng vui sướng và quyết tâm thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật càng tinh tấn hơn.

Bồ tát ã gia nhập vào Tăng chúng và thành tựu các lãnh vực trong giáo pháp của Đức Phật gồm Kinh và Luật. Như vậy Bồ tát ã óng góp vào việc hoằng dương giáo pháp của Đức Phật Sujāta.

Sau khi tu tập pháp thiền Tứ vô lượng tâm, pháp thiền dẫn ến tái sanh ở cõi Phạm thiên, luôn chánh niệm trong ba oai nghi i, ứng và ngồi (không nằm), Bồ tát ạt ến ỉnh cao của pháp hành là Bát thiền và Ngũ thông. Vì vậy sau khi thân hoại mạng chung, Bồ tát tái sanh về Phạm thiên giới.

Những chi tiết ặc biệt về Đức Phật Sujāta 

Nơi sanh của Đức Phật Sujāta là kinh ô Sumaṅgala, phụ vương là vua Uggata và mẫu hậu là hoàng hậu Pabhāvatī.

Ngài trị vì vương quốc trong chín ngàn năm. Ba cung iện của Ngài là Sirī, Upasirī và Nanda.

Chánh hậu Sirinandā, nàng có hai mươi ba ngàn cung nữ hầu hạ. 

Con trai là hoàng tử Upasena.

Ngài i xuất gia cỡi trên con tuấn mã và hành khổ hạnh trong chín tháng.

Hai vị Thượng thủ Thinh văn của Ngài là trưởng lão Sudassana và trưởng lão Sudeva; thị giả của Ngài là trưởng lão Nārada.

Hai ại ệ tử nữ của Ngài là trưởng lão ni Nāgā và trưởng lão ni Nāgasamālā. Cây bồ-ề là cây Mahāvelu (cây tre lớn)

(Cây tre có thân to lớn, cành lá xum xuê và rợp bóng ến nỗi không có kẽ hở nào ể ánh nắng mặt trời chiếu qua. Cây rất ẹp, thẳng tắp và hấp dẫn. Thân tre chỉ có một ốt và từ ốt này những nhánh lá mọc ra rất xinh ẹp như lông uôi của con chim công và thân hoàn toàn không có gai, các nhánh chỉa ra bốn hướng, che phủ dày ặc)

Hai cận sự nam bậc thánh là trưởng giả Sudatta và trưởng giả Citta. Hai cận sự nữ bậc thánh là Ưu-bà-di Subhaddā và Ưu-bà-di Padumā.

Đức Phật Sujāta cao năm mươi hắc tay. Ngài có tất cả những hảo tướng của một vị Phật. 

Hào quang từ thân Ngài chiếu sáng khắp phương, xa bao nhiêu tùy ý . Không có loại ánh sáng nào có thể sánh bằng hào quang của Ngài.

Thọ mạng trong thời kỳ của Đức Phật Sujāta là chín chục ngàn năm và trải qua bốn phần năm của thọ mạng, Đức Phật ã cứu vớt cho vô số chúng sanh gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên thoát khỏi ại dương luân hồi và ặt họ bên kia bờ Niết bàn.

Như những con sóng trong ại dương trông thật kỳ diệu, như các vì sao và các hành tinh lấp lánh, chiếu sáng trong bầu trời thật kỳ ảo, giáo pháp của Đức Phật Sujāta cũng chiếu sáng một cách kỳ diệu bởi những vị A-la-hán.

Kinh cảm quán 

Đức Phật Sujāta ấy giống như chư Phật vô thượng trong quá khứ và những ân ức của Đức Phật Sujāta ấy tất cả ều ã biến mất. Tất cả các pháp hữu vi quả thật vô ích và không thực chất!

Bảo tháp 

Như vậy Đức Phật Sujāta, bậc chiến thắng Ngũ ma, ã viên tịch ại Niết bàn tại vườn Sīlarāma. Tại khu vườn này, một bảo tháp cao ba gāvuta ược xây dựng ể cúng dường Đức Phật.

Kết thúc lịch sử Đức Phật Sujāta - Sujāta Buddhavaṃsa

v]œ

 

13. Piyadassī Buddhavaṁsa 

(Lịch sử Đức Phật Piyadassī) 

   

Đại kiếp mà Đức Phật Sujāta xuất hiện ã kết thúc và cách ây một ngàn tám trăm ại kiếp, trong một ại kiếp nọ - ại kiếp Varakappa có ba vị Phật lần lượt xuất hiện: Piyadassī, Aṭṭhadassī và Dhammadassī. Câu chuyện về Đức Phật Piyadassī, vị Phật ầu tiên trong ba vị Phật  như sau:

Sau khi thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật, Bồ tát Piyadassī tái sanh vào cung trời Đâu suất à. Theo truyền thống của chư vị Bồ tát nhận lời thỉnh cầu của chư thiên và Phạm thiên ể thành Phật tế ộ chúng sanh, Ngài xuống cõi nhân loại và thọ sanh vào lòng hoàng hậu Candā, chánh hậu của vua Sudatta trong kinh ô Sudhaññavatī. Mười tháng trôi qua, Bồ tát ản sanh ở vườn Varuna.

Bồ tát ược ặt tên là Piyadassī vì những iều kỳ diệu kiết tường xảy ra trong ngày ặt tên của Ngài.

Đời sống ở vương cung 

Khi Bồ tát ến tuổi trưởng thành, Ngài sống trong ba cung iện Sunimmala, Vimula và Giriguha, ược hầu hạ chăm sóc bởi công chúa Vimalā và ba mươi ba ngàn cung nữ trong chín ngàn năm. Ngài thọ hưởng cuộc sống ở vương cung như ở cõi chư thiên.

Sự xuất gia 

Nhìn thấy bốn iềm tướng và sau khi công chúa Vimalā hạ sanh một hoàng nam tên Kañcanavela. Ngài i xuất gia bằng xe ngựa kéo. Mười triệu người khác cũng noi theo gương của Ngài mà trở thành samôn.

Sự thành ạo 

Bồ tát Piyadassī hành pháp khổ hạnh cùng với mười triệu vị sa-môn trong sáu tháng. Vào ngày rằm tháng tư, ngày thành ạo của Bồ tát, Ngài ộ món cơm sữa do con gái của vị Bà-la-môn Vasabha dâng cúng, ở ngôi làng Bà-la-môn Varuna và trải qua suốt ngày trong rừng cây sala ở gần ó. Đến chiều. Ngài một mình i ến cây Đại bồ-ề và nhận tám nắm cỏ trên ường i từ một người dị giáo tên Sujāta. Khi Ngài vừa trải xong mớ cỏ dưới cội cây bồ-ề, cây kakudha, thì Vô ịch bảo tọa cao năm mươi ba hắc tay xuất hiện. Bồ tát ngồi kiết già trên bảo tọa này, thể hiện bốn mức ộ tinh tấn, chiến thắng Ma vương và chứng ắc Phật quả, thành bậc Chánh biến tri, Thế Tôn của ba cõi.

          Ba Thắng thời thuyết pháp của Đức Phật Piyadassī

                                 (Dhammābhisamaya)

Sau khi thành ạo, Đức Phật Piyadassī trải qua bốn mươi chín ngày ở bảy chỗ gần cây ại Bồ-ề. Như các chư Phật ã làm, nhận lời của Phạm thiên, Ngài xét thấy mười triệu Sa-môn ã xuất gia cùng với Ngài, họ có phước quá khứ dẫn ến chứng ắc Đạo Quả và Niết bàn. Rồi Ngài vận dụng thần thông lập tức xuất hiện nơi ẩn cư của họ trong vườn thượng uyển thuộc thành phố Usabhavatī. Theo úng truyền thống của chư Phật quá khứ, giữa mười triệu vị Sa-môn, Đức Phật thuyết bài kinh Chuyển pháp luân. Nhân loại, chư thiên và Phạm thiên ã hội họp ở ó ể nghe Ngài thuyết pháp.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ nhất)

Lần thuyết pháp thứ hai của Đức Phật Piyadassī diễn ra ở trên núi Sudassana, gần thành phố Usabhavatī. Vị thiên Sudassana của ngọn núi là kẻ cố chấp tà kiến nên dân chúng sống trong xứ Diêm phù ề hằng năm ều em lễ vật trị giá cả trăm ngàn ồng tiền vàng dâng cúng cho vị thiên này.

Lúc bấy giờ, sau khi suy nghĩ sẽ oạn trừ tà kiến của vị thiên Sudassana, Đức Phật Piyadassī bèn i ến cung iện của vị thiên. Lúc này vị thiên i tham dự lễ hội các Dạ-xoa, Đức Phật ngồi trên bảo tọa lộng lẫy của vị này, phát ra hào quang sáu màu như mặt trời xuất hiện trên ỉnh núi Yugandhara trong tháng Kattikā (tháng mười âm lịch) của mùa thu. Rồi thiên chúng tùy tùng của Sudassana bèn cúng dường ến Đức Phật các loại hoa, vật thơm, v.v... và vây quanh Ngài.

Sau khi dự hội dạ-xoa về, Sudassana trông thấy hào quang sáu màu phát ra từ cung iện của mình. Vị ấy suy nghĩ: “Trước kia ta chưa bao giờ trông thấy hào quang sáu màu chiếu sáng rực rỡ như vậy. Người này là ai mà dám chiếm cứ chỗ của ta? Người hay chư thiên?” Đang dò xét như vậy, vị ấy trông thấy Đức Phật với mạng lưới hào quang sáu màu giống như mặt trời mọc lên từ ngọn núi Yugandhara. “Vị Samôn ầu trọc ang ngồi trên bảo tọa của ta, lại ược vây quanh bởi tùy tùng của ta.” Sudassana tự nhủ với tâm ầy tức tối, “Được, ta sẽ phô diễn sức mạnh của ta ến vị Sa-môn này.” Nghĩ vậy vị ấy biến toàn thể ngọn núi thành một khối lửa khổng lồ.

Sau khi ã làm như vậy, vị ấy dò xét: “Hiện giờ vị Sa-môn ầu trọc này ã biến thành tro bụi trong ngọn lửa hay chưa?” Nhưng nhìn thấy Đức Phật với gương mặt bình lặng và kim thân của Ngài ang tỏa ra những tia sáng rực rỡ do mạng lưới hào quang tạp sắc. “Vị sa-môn này có thể chịu ược ngọn lửa thiêu ốt,” vị ấy suy nghĩ. “Được, ta sẽ nhận chìm vị ấy trong cơn ại hồng thủy.” Rồi Sudassana biến ra khối nước khổng lồ làm ngập cung iện. Tuy vậy, Đức Phật vẫn ngồi yên trong cung iện ngập nước, và ngay cả một sợi chỉ trên chiếc y của Ngài hay một sợi lông trên thân của Ngài cũng không bị ướt chút nào.

Sau ó, vua dạ-xoa Sudassana suy nghĩ cách khác ể làm ngạt thở Đức Phật và giết chết Ngài. Vị ấy bao vây Đức Phật bằng khối nước lớn, Ngài vẫn rực rỡ trong khối nước màu xanh nhạt với ánh sáng phát ra từ mạng lưới hào quang của Ngài và như ánh sáng mặt trăng êm rằm, ngồii ung dung giữa các quan thần của vua dạ-xoa Sudassana. Không thể kiềm chế ược sân hận, dạ-xoa suy nghĩ: “Bằng mọi cách, ta sẽ giết chết vị ại  Sa-môn này.” Bèn tạo ra cơn mưa với chín loại khí giới rơi xuống Đức Phật. Với oai lực của một vị Phật, tất cả những khí giới ều hóa thành các loại hoa xinh ẹp, thơm ngát và rơi xuống chân của Ngài.

Trông thấy hiện tượng kỳ lạ, Sudassana càng tức giận và hung hăng nhiều hơn (thay vì kính phục và tịnh tín), dạ xoa với cả hai tay nắm lấy hai chân của Đức Phật và nhấc bỗng Ngài lên. Vượt qua ại dương, hắn bay vút ến các rặng núi ánh dấu chỗ tận cùng của thế giới Sa-bà (cakkavāla) vì hắn muốn Đức Phật i khỏi chỗ ngụ của hắn. “Vị Sa-môn này như thế nào rồi? Đã chết hay còn sống?” Suy nghĩ như vậy, hắn nhìn vào Đức Phật và (tựa như giấc mơ) thấy Ngài vẫn ngồi yên chỗ cũ trong cung iện. Dạ-xoa suy nghĩ: “Ồ, vị ại Samôn này rất uy lực, ta không thể kéo vị ấy ra khỏi chỗ ngụ của ta. Nếu ai ó biết ược iều mà ta ang làm thì thật nhục nhã cho ta. Do ó, trước khi có ai ó trông thấy, ta sẽ trốn i, bỏ lại vị Sa-môn lẫn cung iện này.”

Đức Phật biết ược ý nghĩ của dạ-xoa Sudassana, Ngài khởi nguyện ể chư thiên và nhân loại chư thiên trông thấy dạ xoa ang ôm lấy chân của Đức Phật. Đúng như ý nguyện của Ngài, Sudassana không thể rời khỏi chỗ ngụ như ã dự ịnh và vẫn ở ó hai tay ôm lấy chân của Đức Phật.

Ngày hôm ấy là ngày một trăm lẻ một vị vua của toàn cõi Diêm phù ề em lễ vật ến cúng nạp dạ-xoa Sudassana. Họ trông thấy Sudassana ang ôm lấy chân của Đức Phật và ầy ngạc nhiên, họ hô to: “Vua dạ-xoa của chúng ta ang thoa bóp chân vua của các vị Samôn. Ồ, chư Phật quả rất kỳ diệu! Ân ức của các Ngài quả thật kỳ diệu!” Với tâm ầy tịnh tín và tôn kính, họ chấp tay lên trán ể tỏ thái ộ tôn kính Đức Phật.

Trước ám ông ấy, Đức Phật Piyadassī ban huấn từ giáo pháp. Khi ấy có chín trăm ngàn triệu chư thiên và nhân loại chứng ắc ạo quả A-la-hán. 

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ hai)

Một dịp khác, tại thành phố Kumuda rộng chín do tuần, một ác Tăng tên Sona, là kẻ ối ịch với Đức Phật Piyadassī (giống như Devadatta (Đề-bà-ạt-a) trong thời kỳ Đức Phật Gotama của chúng ta), sau khi thuyết phục ược con trai của ức vua - thái tử Mahāpaduma, ã xúi dục vị ấy giết phụ vương. Sau nhiều lần cố gắng ể giết chết Đức Phật bị thất bại, Sona xúi dục quan quản tượng của vua với lời chỉ dẫn: “Khi Đức Phật Piyadassī vào thành phố ể khất thực, hãy thả voi chúa Donamukha tấn công và giết chết vị ấy.” 

Vị quan quản tượng là người thiếu trí, không phân biệt iều gì có lợi và iều không có lợi ích, ông ta suy nghĩ như vầy: “Vị Sa-môn Sona này là bạn thân của vua. Nếu vị ấy không ưa ta thì ta sẽ bị mất việc.” Bởi vậy ông ta chấp nhận lời ề nghị của Sona. Ngày hôm sau, ông ta cho voi Donamukha uống rượu ến say xỉn và thả voi tấn công Đức Phật Piyadassī khi Ngài vừa vào thành khất thực. 

Vừa ược thả ra, voi Donamukha iên cuồng tấn công những con voi khác, ngựa, trâu bò, àn ông, àn bà mà nó thấy trên ường i, phá sập các ngôi nhà ở hai bên ường. Cuối cùng, vừa thấy Đức Phật từ xa, nó phóng nhanh ến ể tấn công Ngài.

Với tâm vô cùng khiếp ảm, dân cư trong thành phố bỏ chạy tán loạn ể tìm chỗ ẩn náu. Khi voi Donamukha xông ến Đức Phật Piyadassī - Đức Tượng Vương Phật, Ngài với tâm hoàn toàn thanh tịnh, phóng ra những luồng mettā (từ lực của tâm bác ái vô lượng) ến voi Donamukha. Như người i vào hồ nước mát, như ứa bé thơ sà vào vòng tay của mẹ, voi Donamukha trở nên hiền dịu, tỉnh táo, thấy ược lỗi lầm của chính mình và quá xấu hổ, nó không thể ứng bình thường mà quì mọp dưới chân Đức Phật, tựa như sắp chui xuống ất.

Trông thấy cảnh tượng kỳ diệu khác thường, dân cư của thành phố ầy hoan hỷ và cất lên tiếng tung hô vang dội như tiếng rống của con sư tử. Họ cũng tôn vinh con voi bằng nhiều cách như hoa thơm, bột thơm, ồ trang sức, v.v... Họ còn tung lên trời mũ, nón, khăn trùm ầu của họ; tiếng trống của chư thiên cũng vang dội cả không trung.

Đức Phật xoa ầu voi ang nằm phục dưới chân Ngài và ban những lời giáo huấn thích hợp với tâm tánh của nó. Sau khi ược khuyên dạy, voi tỉnh táo lên và trở nên thuần thục, giờ ây trông nó như một ệ tử của Đức Phật dễ dạy và dễ bảo. Sau khi ã khuyên dạy voi Donamukha tuân theo Luật tạng, Đức Phật thuyết pháp ến hội chúng ang tụ họp ở ó. Vào lúc kết thúc thời pháp, có tám trăm ngàn triệu người chứng ắc Đạo Quả A-la-hán. 

 (Đây là Dhammābhisamaya lần thứ ba).

Ba kỳ ại hội Thánh Tăng – Sannipāta 

Có ba kỳ ại hội Thánh Tăng ệ tử Đức Phật. Ở kỳ thứ nhất, Đức Phật Piyadassī viếng thăm thành phố Sumaṅgala và ôi bạn - hoàng tử Pālita và chàng thanh niên con trai của vị quốc sư. Nghe tin Đức Phật ến viếng kinh thành, họ cùng với mười trăm ngàn triệu tùy tùng long trọng ón tiếp Đức Phật, nghe Ngài thuyết pháp và tổ chức bố vật thực trong bảy ngày. Vào ngày thứ bảy, Đức Phật ban pháp thoại ể tán dương sự bố thí ấy. Cuối thời pháp thoại, hai người bạn cùng với mười trăm ngàn triệu tùy tùng của họ ều trở thành Thiện lai tỳ khưu và chứng ắc Đạo Quả A-la-hán. Giữa hội chúng tỳ khưu, Đức Phật tụng Ovāda Pātimokkha.

(Đây là Sannipāta lần thứ nhất)

Một dịp khác khi Đức Phật nhiếp phục dạ xoa Sudassana, có chín trăm triệu người trở thành tỳ khưu và chứng ắc Đạo Quả A-la-hán. Giữa hội chúng chín trăm triệu tỳ khưu này, Đức Phật tụng Ovāda Pātimokkha.

(Đây là Sannipāta lần thứ hai)

Một dịp khác, khi Đức Phật nhiếp phục voi Donamukkha, có tám mươi người xuất gia và chứng ắc ạo quả A-la-hán. Giữa hội chúng tám mươi vị A-la-hán này, Đức Phật tụng Ovāda Pātimokkha.

(Đây là Sannipāta lần thứ ba)

            Bồ tát của chúng ta sanh làm Bà-la-môn Kassapa và

                         ược Đức Phật Piyadassī thọ ký 

Lúc bấy giờ Bồ tát của chúng ta là chàng thanh niên Bà-la-môn tên là Kassapa, ã thông suốt Tam phệ à. Sau khi nghe Đức Phật Piyadassī thuyết pháp, ầy tịnh tín vị ấy ã xây dựng một tịnh xá to lớn trị giá một trăm ngàn ồng tiền vàng và dâng ến chư Tăng có Đức Phật chủ trì. Hoan hỉ với việc phước ã làm, vị ấy quy y Tam bảo và thọ trì Ngũ giới rất nghiêm ngặt, không hề dễ duôi.

Ngồi giữa chúng Tăng, Đức Phật Piyadassī công bố lời tiên tri về chàng thanh niên Kassapa: “Sau một ngàn tám trăm ại kiếp kể từ ại kiếp này, chàng thanh niên Kassapa này chắc chắn sẽ thành Phật, danh hiệu là Gotama.”

Sau khi nghe lời tiên tri của Đức Phật Piyadassī, Bồ tát vô cùng vui sướng và quyết tâm thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật.

            Những chi tiết ặc biệt về Đức Phật Piyadassī 

Nơi sanh của Đức Phật Piyadassī là thành phố Suddhaññavatī. Phụ vương là vua Sudatta và mẫu hậu là hoàng hậu Candā.

Ngài trị vì vương quốc trong chín ngàn năm. Ba cung iện của Ngài là Sunimala, Vimala và Giriguha.

Chánh hậu là Vimalā có ba mươi ba ngàn nữ hầu. Con trai là hoàng tử Kañcanavela.

Sau khi nhìn thấy 4 iềm tướng, Ngài i xuất gia bằng xe tuấn mã. Ngài thực hành khổ hạnh (dukkaracariyā) trong sáu tháng.

Hai vị Thượng thủ Thinh văn là trưởng lão Palita Thera và trưởng lão Sabbadassi. Thị giả là trưởng lão Sobhita.

Hai ại ệ tử nữ là trưởng lão ni Sujāta và trưởng lão ni Dhammadina. Cây giác ngộ là cây Kakudha.

Hai cận sự nam bậc thánh là trưởng giả Sundaka và Dhammaka. Hai cận sự nữ bậc thánh là Ưu-bà-di Visakha và Ưu-bà-di Dhammadinna.

Đức Phật Piyadassī có vô số ệ tử và danh tiếng tốt. Ngài có ba mươi hai hảo tướng. Ngài cao tám mươi hắc tay, như cây sala vĩ ại ang nở hoa. 

Không có ánh sáng ngọn èn, ánh sáng mặt trăng hay ánh sáng mặt trời có thể vượt qua hào quang rực rỡ phát ra từ thân Ngài.

Thọ mạng trong thời của Ngài là chín mươi ngàn năm. Ngài sống bằng bốn phần năm của thọ mạng, Ngài cứu giúp chúng sanh gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên thoát khỏi ại dương luân hồi và ặt họ bên kia bờ Niết bàn.

                                   Kinh cảm quán - Saṁvega 

Đức Phật Piyadassī như tất cả chư Phật vô song trong quá khứ và hai vị ại ệ tử Thượng thủ Thinh văn, v.v… tất cả ã biến mất. Tất cả pháp hữu vi quả thật vô ích và không thực chất!

Bảo tháp 

Thế là Đức Phật Piyadassī, bậc Đại Sa-môn ã viên tịch ại Niết bàn tại vườn cây Assattha. Tại khu vườn ấy một bảo tháp cao ba do tuần ược dựng lên ể cúng dường Đức Phật.

Kết thúc lịch sử Đức Phật  Piyadassī - Piyadassī Buddhavaṃsa

]œ

                          14. Atthadassī Buddhavaṁsa                             (Lịch sử Đức Phật Atthadassī) 

    

Sau khi Đức Phật Piyadassī viên tịch ại Niết bàn, thọ mạng của loài người suy giảm dần từ chín chục ngàn tuổi còn mười tuổi, rồi lại tăng lên ến A-tăng-kỳ tuổi. Rồi khi thọ mạng loài người từ A-tăng-kỳ tuổi giảm còn một trăm ngàn tuổi, lúc ấy Bồ tát Atthadassī ã thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật và ã tái sanh vào cung trời Đâu suất à theo úng truyền thống của chư vị Bồ tát. Nhận lời thỉnh cầu của chư thiên và Phạm thiên ể thành Phật cứu ộ chúng sanh, Bồ tát xuống cõi nhân loại và thọ sanh vào lòng của bà Sudassanā, hoàng hậu của vua Sāgara, tại kinh ô Sobhana. Sau mười tháng, Bồ tát ản sanh ở vườn Sucindhana.

Vào ngày ặt tên của Bồ tát, các bậc trí tuệ gọi Ngài là Atthadassī bởi vì các chủ nhân của các kho báu mà ã bị vùi lấp dưới lòng ất trải qua nhiều thế hệ nay lại tìm thấy chỗ chôn giấu của chúng.

Đời sống ở vương cung 

Khi Bồ tát Atthadassī ến tuổi trưởng thành. Ngài sống trong ba cung iện Amaragiri, Sugiri và Vāhana, ược hầu hạ bởi ba mươi ba ngàn cung nữ dẫn ầu là chánh hậu Visākhā, và sống cuộc ời ế vương như ở cõi chư thiên trong mười ngàn năm.

Sự xuất gia 

Khi Bồ tát trông thấy bốn iềm tướng và sau khi hoàng hậu Visākhā hạ sanh một hoàng nam ặt tên Sela, thì Ngài i xuất gia cỡi trên con tuấn mã Sudassana. Chín chục triệu người khác noi theo gương Ngài cũng trở thành những vị sa-môn.

Sự thành ạo 

Cùng với chín chục triệu vị Sa-môn này, Bồ tát Atthadassī thực hành khổ hạnh trong tám tháng. Vào ngày rằm tháng tư, ngày thành ạo của Ngài, dân chúng em món cơm sữa ến cúng long nữ Sucindharā. Nhưng nàng không ăn. Hiện hình trước mặt mọi người, nàng em món cơm sữa ựng trong bát bằng vàng ến dâng cúng Bồ tát. Bồ tát ộ món cơm sữa và trải qua suốt ngày tại rừng cây sala ở gần ó. Đến chiều, Ngài một mình i ến cây ại bồ-ề và trên ường i nhận tám nắm cỏ do chúa rồng Mahāruci dâng tặng. Khi Ngài vừa rải mớ cỏ xuống  cây ại thọ bồ-ề - cây Campaka, thì Vô ịch bảo tọa cao năm mươi ba hắc tay từ lòng ất hiện lên. Ngồi kiết già trên bảo toạ, Ngài vận dụng bốn mức ộ tinh tấn, chiến thắng Ma vương và chứng ắc Phật quả, thành bậc Chánh ẳng giác, Thế Tôn của ba cõi.

         Ba Thắng thời thuyết pháp của Đức Phật Atthadassī 

                                (Dhammābhasamaya) 

Sau khi thành ạo, Đức Phật trải bốn mươi chín ngày ở bảy chỗ gần cây bồ-ề. Nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên và quán xét nên tiếp ộ ai trước, Đức Phật trông thấy chín chục triệu vị Sa-môn ã theo Ngài xuất gia và có ầy ủ phước quá khứ ể dẫn ến chứng ắc Đạo Quả giải thoát. Và sau khi suy xét về chỗ ở của họ, Ngài thấy họ ang trú ngụ ở vườn Anoma, gần thành phố Anoma. Bằng uy lực thần thông, Ngài xuất hiện tại vườn Anoma.

Lúc bấy giờ chín chục triệu vị Sa-môn trông thấy Đức Phật ang i ến từ xa, tất cả ều khởi tâm tịnh tín và niềm nở tiếp ón Đức Phật rồi ngồi xuống ở quanh Ngài. Nhân ó Đức Phật Atthadassī thuyết bài kinh Chuyển pháp luân giống như chư Phật quá khứ ã từng làm. Cuối thời pháp có mười trăm ngàn triệu chúng sanh chứng ắc Đạo Quả giải thoát.

(Đây là Dhammābhasamaya lần thứ nhất)

Một dịp khác, Đức Phật Atthadassī du hành lên cõi Đao lợi thiên và giảng dạy Vi-diệu-pháp ến chư thiên và Phạm thiên. Một trăm ngàn chư thiên và Phạm thiên chứng ắc Đạo Quả từ thời pháp ấy.

(Đây là Dhammābhasamaya lần thứ hai)

Lại một dịp khác, như Đức Phật Gotama của chúng ta về thăm vua cha tại kinh thành Kapilavatthu và kể lại Phật sử Buddhavaṃsa, cũng thế Đức Phật Atthadassī về thăm kinh ô Sobhana và giảng Pháp ến quyến thuộc do vua cha dẫn ầu. trong dịp ấy có mười trăm ngàn triệu chúng sanh chứng ắc Đạo Quả.

(Đây là Dhammābhasamaya lần thứ ba)

Ba kỳ ại hội Thánh Tăng – Sannipāta  

Có ba kỳ ại hội của chư Thinh văn ệ tử Phật. Kỳ thứ nhất diễn ra tại Sucanda, tại ó Thái tử Santa và Upassanta - con trai của vị quốc sư Purohita  (là hai Đại ệ tử tương lai) vì không tìm thấy tinh hoa trong Tam phệ à cũng như trong các giáo lý khác, bèn chỉ ịnh bốn người có trí và một số người canh gác tinh nhuệ ứng ở bốn cổng thành với lời dặn dò: “Hãy thông báo cho chúng ta biết nếu các ngươi thấy hay nghe có người nào ã giác ngộ, dù người ấy là Sa-môn hay Bà-la-môn.”

Khi Đức Phật Atthadassī, chúa của ba loại chúng sanh, cùng với chúng ệ tử i ến kinh thành Sucandaka, thì những người ược chỉ ịnh ấy báo tin cho Thái tử và con trai vị quốc sư về việc i ến của Đức Phật. Khi hay tin ấy, ầy vui sướng cả hai vội vã ra khỏi kinh thành cùng với tùy tùng gồm một ngàn người tiếp ón Đức Phật rồi cung thỉnh Ngài vào kinh ô. Sau khi ã cung thỉnh Đức Phật và chúng Tăng, họ trở về tổ chức một cuộc vô song thí (asadisa mahādanā) ể cúng dường chúng Tăng có Đức Phật dẫn ầu. Vào ngày thứ bảy, họ cùng với dân cư trong thành nghe Đức Phật thuyết pháp. Vào ngày ấy chín mươi tám ngàn người, khi nghe câu “Hãy ến, này các tỳ khưu” thì tất cả ều trở thành Thiện lai tỳ khưu (Ehibhikkhu) v.v... chứng ắc ạo quả A-la-hán. Giữa hội chúng Thiện lai tỳ khưu ấy, Đức Phật tụng Ovāda Pāṭimokkha.

(Đây là Sannipāta lần thứ nhất).

Một dịp khác, khi Đức Phật ban lời giáo giới ến con trai của Ngài, ại ức Sela, tám mươi tám ngàn người khởi tâm tịnh tín và xin Đức Phật gia nhập chúng Tăng. Khi ấy Đức Phật ban Phật ngôn: “Hãy ến, này các tỳ khưu” và tất cả họ ều trở thành “Thiện lai tỳ khưu” và chứng ắc Đạo Quả A-la-hán. Giữa hội chúng tỳ khưu ấy, Đức Phật tụng Ovāda Patimokkha.

  (Đây là Sannipāta lần thứ hai)

Lại một dịp khác, vào ngày rằm tháng Magha, khi chúng sanh ba cõi gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên cu hội ể nghe bài pháp Mahā maṅgala, Đức Phật ã thuyết bài pháp ấy và ộ cho bảy mươi tám ngàn người chứng ắc ạo quả A-la-hán. Giữa hội chúng tỳ khưu ấy, Đức Phật tụng Ovāda Pātimokkha.

  (Đây là Sannipāta lần thứ ba)

         Bồ tát Gotama của chúng ta là ẩn sĩ Susīma và ược 

                        Đức Phật Atthadassī thọ ký  

Lúc bấy giờ, Bồ tát của chúng ta là một vị Bà-la-môn giàu có tên là Susīma, ược thiên hạ công nhận là người có giới ức. Sau khi bố thí tất cả của cải ến những người nghèo, người cô thân, khách vãng lai và những người khác, Bồ tát ến Hy-mã-lạp sơn và sống cuộc ời ẩn sĩ. Sống ở ó và tinh tấn hành thiền, Bồ tát ã chứng ắc Bát thiền và Ngũ thông. Rồi vị ấy giảng dạy dân chúng về phước và tội của ịnh luật Nghiệp báo và chờ ợi Đức Phật xuất hiện.

Khi Đức Phật Atthadassī xuất hiện trong thế gian và ‘tưới xuống thế gian cơn mưa bất tử’ giữa hội chúng gồm tám hạng người. Đạo sĩ Susīma cũng có mặt ở ó và nghe Đức Phật thuyết pháp. Rồi vị ấy lên cõi chư thiên và em về những thiên hoa như hoa sen, hoa Mạn-à-la, v.v... từ cõi chư thiên. Vì muốn thị hiện thần thông của mình, vị ấy xuất hiện giữa không trung và tạo ra cơn mưa hoa ổ xuống khắp bốn phương như cơn mưa lớn ổ xuống khắp bốn châu. Vị ấy cũng hóa ra một giả ốc bằng hoa, bốn mặt ều ược trang trí bằng hoa, ặt một cái cổng tháp vòm ở lối vào với những cái cột và những mạng lưới ều ược trang trí bằng hoa. Rồi Bồ tát cúng dường Đức Phật một cái lọng bằng hoa Mạn-à-la. Khi ấy Đức Phật công bố lời tiên tri về ạo sĩ Susīma: “Trong tương lai trải qua một ngàn tám trăm ại kiếp, vị ạo sĩ Susīma này sẽ thành một vị Phật danh hiệu là Gotama.”

Nghe lời tiên tri của Đức Phật, Bồ tát vô cùng vui sướng và quyết tâm thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật tinh tấn nhiều hơn, ể không trở nên dễ duôi.

Những chi tiết ặc biệt về Đức Phật Atthadassī 

Nơi sanh của Đức Phật Atthadassī là kinh ô Sobhana; phụ vương là vua Sāgara và mẫu hậu là hoàng hậu Sudassanā.

Ngài trị vì vương quốc trong mười ngàn năm. Ba cung iện là Amaragiri, Sugiri và Vāhana.

Chánh hậu là Visākhā, có ba mươi ba ngàn nữ hầu. Con trai là hoàng tử Sela.

Ngài i xuất gia bằng tuấn mã Sudassana và thực hành khổ hạnh trong tám tháng.

Hai vị Thượng thủ Thinh văn là trưởng lão Santa và trưởng lão Upasanta. Thị giả là trưởng lão Abhaya.

Hai ại ệ tử nữ là trưởng lão ni Dhammā và trưởng lão ni Sudhammā. Cây giác ngộ là cây Campaka.

Hai cận sự nam bậc thánh là trưởng giả Nisabha và Nakula. Hai cận sự nữ bậc thánh là Ưu-bà-di Makilā và Ưu-bà-di Sanandā.

Đức Phật Atthadassī cao tám mươi hắc tay, oai nghi như cây ại Sala trong thời nở hoa hoặc như trăng rằm, là vua của các vì sao và tinh tú.

Hào quang phát ra từ thân của Đức Phật Atthadassī thường xuyên chiếu sáng khắp các phương trên và dưới xa một do-tuần. (Tùy theo ý của Ngài, ánh sáng có thể phát tán khắp mười muôn cõi thế giới)

Vượt trội chúng sanh, Đức Phật Atthadassī có năm mắt. Thọ mạng trong thời của Ngài là một trăm ngàn năm, Ngài sống bốn phần năm của thọ mạng.

Kinh cảm quán 

Sau khi chiếu sáng khắp thế gian gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên bằng ánh sáng vô song diệu pháp, Đức Phật Atthadassī ã viên tịch ại Niết bàn như khối lửa chợt tắt do hết nhiên liệu.

Bảo tháp 

Thế là Đức Phật Atthadassī, Bậc chiến thắng ngũ ma, ã viên tịch ại Niết bàn tại vườn Anoma. Theo úng ý nguyện của Ngài, Xá lợi ã phân tán i khắp cõi Diêm phù ề và ược chúng sanh gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên ngày êm lễ bái cúng dường.

Kết thúc lịch sử Đức Phật Atthadassī- Atthadassī Buddhavaṃsa

]œ

                       15. Dhammadassī Buddhavaṁsa                      (Lịch sử Đức Phật Dhammadassī) 

    

Sau khi Đức Phật Atthadassī viên tịch thì thọ mạng của loài người dần dần giảm từ một trăm ngàn tuổi còn mười tuổi, rồi lại tăng lên ến A-tăng-kỳ tuổi. Rồi khi thọ mạng loài người từ A-tăng-kỳ tuổi giảm xuống một trăm ngàn tuổi thì Bồ tát Dhammadassī ã tái sanh vào cung trời Đâu suất à. Nhận lời thỉnh cầu của chư thiên và Phạm thiên ể thành Phật ộ thoát chúng sanh, Ngài xuống cõi nhân loại và thọ sanh vào lòng của bà Sunandā, hoàng hậu của vua Sarana, tại kinh ô Sarana. Trải qua mười tháng, Bồ tát ản sanh tại vườn thượng uyển Sarana.

Khi Ngài sanh ra, các iều khoản không hợp lý và bất chánh trong bộ luật của vương quốc tự nhiên biến mất, chỉ còn lại những iều khoản úng pháp và hợp lý. Do ó, vào ngày ặt tên của Ngài, các nhà tướng số thông thái và quyến thuộc ặt cho Ngài cái tên là Dhammadassī.

Đời sống ở vương cung  

Khi Bồ tát Dhammadassī ến tuổi trưởng thành, Ngài sống trong ba cung iện Araja, Viraja và Sudassana, ược hầu hạ bởi bốn mươi ba ngàn cung nữ dẫn ầu là công chúa Vicikoli và sống cuộc ời ế vương như ở cõi chư thiên trong tám ngàn năm.

Sự xuất gia  

Sau khi trông thấy bốn iềm tướng và chánh hậu Vicikoli hạ sanh một hoàng nam là Puññavaḍḍhana. Bồ tát Dhammadassī, người thanh thoát như một vị thiên, ang sống cuộc ời của chư thiên. Thức giấc vào nửa êm, ngồi trên giường và trông thấy những cảnh tượng áng nhờm gớm của các cung nữ ang nằm ngủ ngã nghiêng. Với tâm nhàm chán ến cực ộ, Ngài khởi tâm từ bỏ thế gian. Vừa khởi lên ý nghĩ ấy thì cung iện Sudassana mà Ngài ang ở có bốn loại quân binh canh gác bèn bay bỗng lên hư không và di chuyển như mặt trời thứ hai ang di chuyển, rồi áp xuống gần cây bồ-ề Bimbijala.

Bồ tát mặc vào y phục hoa sen do Phạm thiên cúng dường; khi rời khỏi cung iện, Ngài ứng không xa cung iện. Cung iện lại bay lên hư không và áp xuống ở chỗ ất có cây bồ-ề. Các nữ quan và tùy tùng của họ bèn xuống khỏi cung iện và ứng ở một quãng xa nửa gāvuta. Giữa những người ấy, những người nam bèn mặc vào những chiếc y vàng theo gương của Bồ tát và trở thành những vị Sa-môn, số lượng mười trăm ngàn triệu.

Sự thành ạo

Sau khi thực hành pháp khổ hạnh trong bảy ngày, Bồ tát Dhammadassī ộ món cơm sữa do công chúa Vicikoli dâng cúng vào ngày rằm tháng tư - ngày thành ạo của Ngài và trải qua suốt ngày tại vườn cây Badara (cây mận) ở gần ó. Đến chiều, Ngài một mình i ến cây ại Bồ-ề và Ngài nhận tám nắm cỏ từ người giữ ruộng lúa mạch tên Sirivaddha trên ường i. Khi Bồ tát vừa rải mớ cỏ xuống cội cây Bồ-ề thì Vô ịch bảo tọa cao năm mươi ba hắc tay xuất hiện. Ngồi kiết già trên bảo tọa, Ngài chứng ắc Phật quả như chư Phật quá khứ.

Ba Thắng thời thuyết pháp của Đức Phật Dhammadassī – Dhammābhisamaya   

Sau khi thành ạo, Đức Phật trú ngụ ở bảy chỗ quanh khu vực cây Bồ-ề. Nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên ể thuyết pháp tế ộ chúng sanh, Ngài xem xét nên tiếp ộ ai trước và trông thấy mười trăm ngàn triệu vị sa-môn ã xuất gia cùng với Ngài, có ầy ủ túc duyên ể dẫn ến chứng ắc Đạo Quả và Niết bàn. Ngay lập tức, với uy lực thần thông Ngài xuất hiện tại vườn Lộc giả, nơi các vị Sa-môn ang trú ngụ, cách cây Bồ-ề mười tám do tuần.

Khi thấy Đức Phật từ xa, các vị Sa-môn niềm nở ón tiếp Đức Phật làm các phận sự cần thiết ối với Ngài, rồi ngồi xuống ở nơi phải lẽ. Lúc ấy, cũng như chư Phật quá khứ ã từng làm, Đức Phật Dhammadassī thuyết bài kinh Chuyển pháp luân ến các Sa-môn, và tất cả chư thiên cùng Phạm thiên ã ến dự thính. Cuối thời khóa, có mười trăm ngàn triệu chúng sanh chứng ắc Đạo Quả.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ nhất)

Một dịp khác, tại kinh ô Tagara, sau khi trông thấy những iều bất lợi của ngũ dục và những lợi ích của sự xuất gia vua Sañjaya ã trở thành vị ạo sĩ. Chín trăm triệu người cũng theo gương vị ấy mà trở thành sa-môn. Tất cả họ ều chứng ắc năm Thắng trí và Bát thiền. Thấy họ có ầy ủ túc duyên ể dẫn ến chứng ắc ạo quả, Đức Phật bèn i xuyên qua hư không và ến ẩn xá của Sañjaya, Ngài ứng giữa hư không và thuyết pháp thích hợp với căn tánh của họ. Như vậy Đức Phật ã giúp ỡ họ chứng ắc ạo tuệ, là con mắt của Pháp bảo (dhammacakkhu).

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ hai)

Lại một dịp khác, Sakka, chúa của chư thiên với ước muốn nghe pháp nên dẫn theo tùy tùng i ến Đức Phật. Khi Đức Phật thuyết pháp ến họ, có tám trăm triệu vị chư thiên chứng ắc Đạo Quả.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ ba)

Ba kỳ ại hội Thánh Tăng – Sannipāta  

          Có ba kỳ                   ại hội của chư Thánh Tăng ệ tử Đức Phật

Dhammadassī. Kỳ ại hội thứ nhất xảy ra ở kinh ô Sarana, Đức Phật Dhammadassī ã truyền phép xuất gia Thiện lai tỳ khưu ến hai người em khác mẹ của Ngài, là hoàng tử Paduma và hoàng tử Phussa, và tùy tùng của họ, rồi an cư kiết hạ trong kinh ô ấy. Cuối mùa an cư kiết hạ, giữa hội chúng gồm một ngàn triệu tỳ khưu, tất cả ều là A-la-hán, Đức Phật ã làm lễ tự tứ Visuddhi Pavāranā.

 (Đây là Sannipāta lần thứ nhất)

Một dịp khác, Đức Phật Dhammadassī dạy A-tỳ-àm ở cõi trời Đạo lợi (Tavatiṃsa) rồi xuống lại cõi nhân loại. Khi ấy có một ngàn triệu vị tỳ khưu cu hội.

 (Đây là Sannipāta lần thứ hai)

Lại một dịp khác, Đức Phật Dhammadassī giải thích về các lợi ích của mười ba pháp ầu à (dhutaṅga) và công bố rằng vị ại ệ tử Harita, bậc A-la-hán là vị tối thắng nhất về các pháp ầu à. Khi ấy giữa hội chúng gồm tám trăm triệu vị tỳ khưu, Đức Phật tụng Ovāda Patimokkha.

 (Đây là Sannipāta lần thứ ba)

                  Bồ tát Gotama sanh làm Sakka và ược 

                        Đức Phật Dhammadassī thọ ký 

Lúc bấy giờ, Bồ tát của chúng ta là Sakka, vua của chư thiên, cùng với thiên chúng ở hai cõi Tứ thiên vương (Catumahārajika) và Đao lợi (Tāvatiṃsa), vị ấy i ến Đức Phật và tôn vinh Ngài bằng những loại hoa trời v.v... và trổi lên những bản nhạc của chư thiên. Đức Phật công bố lời tiên tri: “Vị Sakka này trong tương lai chắc chắn sẽ thành một vị Phật, danh hiệu là Gotama.”

Sau khi nghe lời tiên tri của Đức Phật Dhammadassī, Bồ tát Sakka vô cùng vui sướng và quyết tâm thực hành viên mãn các pháp Ba-lamật tinh tấn hơn.

Những chi tiết ặc biệt về Đức Phật Dhammadassī 

Nơi sanh của Đức Phật Dhammadassī là kinh ô Sarana, phụ vương là vua Sarana và mẫu hậu là hoàng hậu Sunandā.

Ngài trị vì vương quốc trong tám ngàn năm. Ba cung iện của Ngài là Araja, Viraja và Sudassana.

Chánh hậu là Vicikoli có bốn mươi ba ngàn cung nữ hầu hạ. Con trai là Puññavaddhana.

Phương tiện chuyên chở Ngài i xuất gia là cung iện. Ngài thực hành khổ hạnh trong bảy ngày.

Hai vị Thượng thủ Thinh văn là trưởng lão Paduma và trưởng lão Phussal. Thị giả là trưởng lão Sunetta.

Hai ại ệ tử nữ là trưởng lão ni Khemā và trưởng lão ni Saccanamā. Cây giác ngộ là cây Bimbijāla.

Hai cận sự nam bậc thánh là trưởng giả Subhadda và trưởng giả Katissaha; hai cận nữ bậc thánh là Ưu-bà-di Sāliyā và Ưu-bà-di Kaliyā.

Đức Phật Dhammadassī cao tám mươi hắc tay. Oai lực của Ngài rực rỡ khắp mười ngàn thế giới.

Đức Phật Dhammadassī uy nghi như cây ại Sala ang thời nở hoa hoặc như ánh sáng của mặt trời lúc giữa trưa chiếu sáng cả bầu trời.

Đức Phật Dhammadassī, Bậc có ngũ nhãn, ã sống hết cuộc ời của Ngài trong một trăm ngàn năm.

Kinh cảm quán  

Sau khi chiếu sáng thế gian bằng giáo pháp thanh tịnh của Ngài, Đức Phật Dhammadassī cùng chúng Thanh văn ệ tử của Ngài tất cả ều biến mất như mặt trăng biến mất sau khi chiếu sáng bầu trời.

Bảo tháp 

Thế là Đức Phật Dhammadassī ã viên tịch ại Niết bàn ở vườn Sala, thành phố Sālavatī. Tại ó một bảo tháp cao ba do tuần ược xây dựng ể cúng dường Đức Phật.

Kết thúc lịch sử Đức Phật Dhammadassī - Dhammadassī  Buddhavaṃsa

]œ

 

                         16.  Siddhattha Buddhavaṁsa                          (Lịch sử Đức Phật Siddhattha) 

    

Đại kiếp mà Đức Phật Dhammadassī xuất hiện ã kết thúc, thì hết ại kiếp này sang ại kiếp khác, trải qua một ngàn bảy trăm lẻ ại kiếp không có chư Phật xuất hiện. Như vậy cách ây chín mươi bốn ại kiếp duy nhất có một vị Phật xuất hiện, ó là Đức Phật Siddhattha.

Lúc bấy giờ, cách ây chín mươi bốn ại kiếp, khi thọ mạng của loài người từ A-tăng-kỳ tuổi giảm xuống còn một trăm ngàn tuổi thì Bồ tát Siddhattha - sau khi ã thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật, theo truyền thống của chư vị Bồ tát, ã tái sanh vào cung trời Đâu suất à. Nhận lời thỉnh cầu của chư thiên và Phạm thiên, Ngài xuống cõi nhân loại và thọ sanh vào lòng của bà Suphassā, chánh hậu của vua Udena, tại kinh ô Vebhara. Sau mười tháng, Bồ tát ản sanh tại vườn Viriya.

Vào ngày ặt tên, các nhà tướng số thông thái và quyền thuộc của Bồ tát ặt tên cho Ngài là Siddhattha, vì vào lúc Ngài ra ời, những ước muốn lớn nhỏ của mọi người ều ược thành tựu.

Đời sống ở vương cung  

Khi ến tuổi trưởng thành, Bồ tát Siddhattha sống trong ba cung iện Kola, Suppaha và Kokanada, ược hầu hạ và chăm sóc bởi bốn mươi tám ngàn cung nữ, dẫn ầu là công chúa Somanassā và sống cuộc ời ế vương như ở cõi chư thiên trong mười năm.

Sự xuất gia 

Khi Bồ tát Siddhattha trông thấy bốn iềm tướng và sau khi công chúa Somanassā hạ sanh một hoàng nam ặt tên là Anupama, Ngài bèn i xuất gia trong chiếc kiệu vàng vào ngày rằm tháng Āsalhi, và trở thành vị Sa-môn tại vườn Viriya. Noi theo gương Ngài, mười trăm ngàn triệu người khác cũng trở thành Sa-môn.

Sự thành ạo 

Cùng với mười trăm ngàn triệu vị Sa-môn, Bồ tát Siddhattha thực hành khổ hạnh trong mười tháng. Vào ngày rằm tháng tư, ngày thành ạo của Ngài, Ngài ộ món cơm sữa do thiếu nữ Bà-la-môn Sunettā, ở làng Asadisa dâng cúng và Ngài trải qua suốt ngày trong rừng cây Badara ở gần ó. Đến chiều, Ngài một mình i ến cây ại Bồ ề Kanilāra và trên ường i nhận tám nắm cỏ từ một người canh giữ ruộng lúa tên Varuṇa. Khi Ngài vừa rải mớ cỏ xuống cội cây bồ ề thì Vô ịch bảo tọa cao bốn mươi hắc tay xuất hiện. Ngồi kiết già trên bảo tọa, Ngài chứng ắc Phật quả như chư Phật quá khứ.

Ba Thắng thời thuyết pháp của Đức Phật Siddhattha (Dhammābhisamaya) 

Sau khi thành ạo, Đức Phật Siddhattha trải qua bốn mươi chín ngày ở bảy chỗ gần cây Bồ ề. Nhận lời thỉnh cầu của ại Phạm thiên, Ngài quán xét xem nên thuyết pháp tiếp ộ ai trước, Ngài trông thấy mười trăm ngàn triệu vị Sa-môn ã xuất gia chung với Ngài là những người ã gieo tạo ầy ủ phước báu có thể chứng ắc Đạo Quả giải thoát. Khi nghĩ rằng: “Ta sẽ thuyết pháp ến họ trước,” Ngài quán xét về chỗ ngụ của họ và trông thấy họ ang ngụ tại vườn Nai, cách ại thọ Bồ ề mười tám do-tuần. Với thần thông, Ngài xuất hiện lập tức ở vườn Nai

Trông thấy Đức Phật từ xa ến, mười trăm ngàn triệu vị sa-môn ã tín thành ón tiếp Ngài và làm các phận sự thích hợp, rồi ngồi quanh Đức Phật. Khi ấy Đức Phật thuyết bài kinh Chuyển pháp luân ến họ bao gồm chư thiên và Phạm thiên ã cu hội ể thính pháp. Lúc bấy giờ có mười trăm ngàn triệu chúng sanh chứng ắc Đạo Quả giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ nhất)

Một dịp khác, theo lời mời của vua Bhīmaratha của kinh ô Bhīmaratha, Đức Phật Siddhattha ến viếng kinh ô và trú ngụ trong giả ốc của hoàng gia ược dựng lên ở một bãi ất rộng, giữa trung tâm của kinh ô, Đức Phật Siddhattha có giọng nói như chim Ca-lăng-tầngià (karavīka) hoặc như của Phạm thiên, giọng nói ngọt ngào, làm ẹp lòng người nghe và thu hút sự lắng nghe của các bậc trí. Bằng sự thuyết pháp thấu khắp bốn phương như vậy, Ngài ã ánh lên tiếng trống bất tử. Lúc bấy giờ có chín trăm triệu chúng sanh chứng ắc Đạo Quả giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ hai)

Lại một dịp khác, Đức Phật Siddhattha viếng thăm quê nhà của Ngài ở Vebhāra và giữa hội chúng gồm quyến thuộc của Ngài, dẫn ầu là phụ vương Udena, Ngài ã kể lại lịch sử của chư Phật quá khứ.

Lúc bấy giờ có chín trăm triệu chúng sanh chứng ắc Đạo Quả giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ ba)

Ba kỳ ại hội Thánh Tăng – Sannipāta 

Có ba kỳ ại hội Thánh Tăng ệ tử của Đức Phật Siddhattha. Kỳ ại hội thứ nhất diễn ra ở thành phố Amara xinh ẹp, làm say mê người thưởng ngoạn ví như thành phố chư thiên ở cõi trời Ba-mươi ba (Tāvatiṃsa). Ở tại kinh ô ấy có hai anh em, cũng là hai vị Thượng thủ Thinh văn tương lai của Đức Phật - thái tử Sambala và thái tử Sumitta, họ trị vì chung một vương quốc như các vị thái tử Licchavi trong thời của Đức Phật chúng ta. Thấy rằng hai vị thái tử này có tiềm năng phước báu trong quá khứ dẫn ến Đạo Quả giải thoát, Đức Phật Siddhattha bèn i xuyên qua hư không ến trung tâm của kinh ô Amara. Khi áp xuống mặt ất,  Ngài in lại dấu chân bằng phẳng có một trăm lẻ tám hảo tướng, rồi Ngài i ến vườn Amara và ngồi trên tảng á trông như pho tượng bằng vàng.

Hai vị thái tử trông thấy các dấu chân (padacetiya), họ cùng với tùy tùng lần theo dấu vết và ến gần Đức Phật,  ảnh lễ Ngài và ngồi xuống ở quanh Ngài. Khi Đức Phật thuyết pháp thích hợp với căn tánh của họ, họ khởi tâm tịnh tín nơi Ngài và sau khi ược Đức Phật truyền phép xuất gia Thiện lai tỳ khưu, tất cả họ ều chứng ắc Đạo Quả Ala-hán. Giữa hội chúng gồm một ngàn triệu vị tỳ khưu ấy, Đức Phật tụng Ovāda Pātimokkha.

(Đây là Sannipāta lần thứ nhất)

Một dịp khác, giữa hội chúng tỳ khưu gồm chín trăm triệu người, là những quyến thuộc của Ngài, tại Vebhāra, Đức Phật tụng Ovāda Pātimokkha.

(Đây là Sannipāta lần thứ hai)

Lại một dịp khác, giữa hội chúng gồm tám trăm triệu vị tỳ khưu ã cu hội ở tịnh xá Sudassana, Đức Phật tụng Ovāda Pātimokkha.

(Đây là Sannipāta lần thứ ba)

      Bồ tát Gotama của chúng ta làm ẩn sĩ Maṅgala và ược 

                          Đức Phật Siddhattha thọ ký 

Lúc bấy giờ Bồ tát của chúng ta là một thanh niên Bà-la-môn tên Maṅgala ở tại thành phố Sūrasena, thông thuộc cổ văn Phệ à cũng như những lãnh vực văn chương của chúng. Vị ấy bố thí tất cả tài sản của mình trị giá hằng chục triệu ồng tiền vàng ến người nghèo và người không nơi nương tựa, rồi xuất gia làm ẩn sĩ. Nhờ chứng ắc Bát thiền và Ngũ thông, nên vị ấy có những năng lực mà không ai có thể làm hại ược vị ấy. Trong khi Bồ tát ang sống như vậy thì nghe tin ‘Đức Phật Siddhattha ã xuất hiện trong thế gian.’ Do ó, vị ấy i ến Đức Phật và cung kính ảnh lễ Ngài. Sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp, ạo sĩ rất hoan hỷ, bèn mang về các trái cây từ cây táo hồng của xứ Diêm phù ề bằng năng lực thần thông, ạo sĩ ã cúng dường ến Đức Phật Siddhattha cùng chúng Tăng gồm chín trăm triệu vị A-lahán tại tịnh xá Sūrasena. Sau khi ộ món trái cây, Đức Phật Siddhattha công bố lời tiên tri: “Vị ại sĩ Maṅgala này trong tương lai sau chín mươi bốn ại kiếp kể từ nay sẽ thành một vị Phật danh hiệu là Gotama.”

Nghe lời tiên tri của Đức Phật, Bồ tát Maṅgala rất vui sướng và nguyện thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật tinh tấn hơn.

Những chi tiết ặc biệt của Đức Phật Siddhattha 

Nơi sanh của Đức Phật Siddhattha là kinh ô Vebhāra, phụ vương là vua Udena và mẫu hậu là hoàng hậu Suphassa.

Ngài trị vì vương quốc trong mười ngàn năm; ba cung iện của Ngài Koka, Suppala và Kokadana.

Chánh hậu là Somanassā, có bốn mươi tám ngàn cung nữ hầu hạ. Con trai là hoàng tử Anupama.

Ngài i xuất gia bằng kiệu, thực hành khổ hạnh trong mười tháng.

Hai vị Thượng thủ Thinh văn là trưởng lão Sambala và trưởng lão Sunitta. Thị giả là trưởng lão Revata.

Hai ại ệ tử nữ là trưởng lão ni Sīvala và trưởng lão ni Suramā.  Cây giác ngộ là cây Kanikāra.

Hai cận sự nam bậc thánh là hai vị trưởng giả Suppiya và Samudda.  Hai cận sự nữ bậc thánh là Ưu bà-di Rammā và Ưu-bà-di Surammā.

Đức Phật cao sáu mươi hắc tay. Ngài chiếu sáng khắp mười ngàn thế giới như cột trụ bằng bảy báu ược dựng lên ể tôn thờ, lễ bái.

Giống như chư Phật vô thượng trong quá khứ, vô song, vô ịch và có ngũ nhãn, Đức Phật sống thọ một trăm ngàn tuổi.

                                          Kinh cảm quán  

Sau khi thị hiện hào quang ưu việt từ kim thân của Ngài cũng như ánh sáng của trí tuệ, khiến cho ạo quả nở hoa trong chúng Thanh văn ệ tử của Ngài, và sau khi làm cho họ trở nên sáng chói bằng những pháp hợp thế và siêu thế, Đức Phật Siddhattha cùng với chúng ệ tử tất cả ều viên tịch ại Niết bàn và kết thúc kiếp sống cuối cùng.

Bảo tháp 

Thế là Đức Phật Siddhattha, vị thánh vương của hàng sa-môn, ã viên tịch ại Niết bàn tại vườn Anoma, gần thành phố Kancanavelu.

Tại khu vườn ấy, một bảo tháp bằng bảy báu cao bốn do-tuần ược xây dựng ể cúng dường Đức Phật Siddhattha.

Kết thúc lịch sử Đức Phật Siddhattha-Siddhattha Buddhavaṃsa

]œ

 

                           17. Tissa Buddhavaṁsa                             (Lịch sử Đức Phật Tissa) 

Khi ại kiếp mà Đức Phật Siddhatha xuất hiện kết thúc, tiếp theo là Không kiếp - kiếp không có chư Phật xuất hiện. Khi Không kiếp ấy ã trôi qua và cách ây chín mươi hai ại kiếp có hai vị Phật, Đức Phật Tissa và Đức Phật Phussa xuất hiện ( ó là Manda kappa)

Lịch sử của Đức Phật Tissa-diễn ra như sau: Cách ây chín mươi hai ại kiếp, thọ mạng của loài người giảm từ A-tăng-kỳ tuổi xuống còn một trăm tuổi, khi ấy Bồ tát Tissa tái sanh vào cung trời Đâu suất à sau khi ã thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật. Nhận lời thỉnh cầu của chư thiên và Phạm thiên ể thành Phật, Ngài xuống cõi nhân loại và thọ sanh vào lòng của bà Padumā, chánh hậu của vua Janasandha, ở kinh ô Khemaka. Mười tháng trôi qua, Bồ tát ản sanh ở vườn Anoma.

 Vào ngày ặt tên, các nhà tướng số thông thái và quyến thuộc ặt tên cho Ngài là Tissa (có hai loại tên: anvattha rulhi. Tên ược ặt dựa vào một biến cố ặc biệt hay một ý nghĩa ặc biệt là anvattha. Tên ược ặt không dựa vào biến cố ặc biệt hoặc ý nghĩa ặc biệt mà ược ặt cho thuận tiện thì gọi là rulhi. Ở ây tên Tissa ược ặt cho Bồ tát thuộc loại rulhi).

Đời sống ở vương cung 

Khi Bồ tát ến tuổi trưởng thành, Ngài sống trong ba cung iện Guhasela, Narisaya và Nisabha, ược chăm sóc hầu hạ bởi ba mươi ngàn cung nữ, dẫn ầu là công chúa Subhaddā và sống cuộc ời ế vương giống như ở cõi chư thiên trong bảy ngàn năm.

Sự xuất gia 

Khi Bồ tát trông thấy bốn iềm tướng và sau khi công chúa Subhaddā ã hạ sanh một hoàng nam ặt tên là Ānanda, Ngài bèn i xuất gia cỡi trên tuấn mã Sonuttara và trở thành Sa-môn. Mười triệu người ã noi theo gương của Ngài cũng xuất gia Sa-môn.

Sự thành ạo 

Cùng với mười triệu vị Sa-môn này, Bồ tát Tissa thực hành khổ hạnh trong tám tháng. Vào ngày rằm tháng tư, ngày thành ạo của Ngài, Ngài ộ món cơm sữa do Virā dâng cúng, con gái của vị trưởng giả ở thị trấn Vīra,  và trải qua suốt ngày trong rừng cây sala của ịa phương. Đến chiều, Ngài một mình i ến cây ại bồ ề. Trên ường i, Ngài nhận tám nắm cỏ do người giữ ruộng lúa, tên Vijisaṅgāmaka dâng cúng. Khi Bồ tát Tissa vừa rải mớ cỏ xuống cội cây bồ ề Asana thì Vô ịch bảo tọa, cao bốn mươi hắc tay xuất hiện. Ngồi kiết già trên bảo tọa, Ngài chứng ắc Phật quả giống như các chư Phật trong quá khứ.

Ba Thắng thời thuyết pháp của Đức Phật Tissa (Dhammābhisamaya) 

Sau khi thành ạo, Đức Phật Tissa trú ở gần cây Đại bồ ề trong bốn mươi chín ngày. Nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên ể thuyết pháp tế ộ chúng sanh, Ngài quán xem nên thuyết pháp tiếp ộ ai trước và trông thấy hai vị Thượng thủ Thinh văn tương lai - hoàng tử Brahmadeva và hoàng tử Udaya, ang sống ở Yasavatī, hai người này cùng với tùy tùng ều có phước trong quá khứ dẫn ến Đạo Quả. Ngài vận dụng thần thông bay xuyên qua hư không và áp xuống ở khu rừng Nai gần Yasavatī, rồi bảo người giữ vườn i gọi hai vị hoàng tử. Khi hai vị hoàng từ cùng tùy tùng ến, theo thông lệ của chư Phật quá khứ, Đức Phật Tissa thuyết bài kinh Chuyển pháp luân ến nhân loại và chư thiên ã theo hai vị hoàng từ ến thính pháp. Đức Phật ã chuyển giáo pháp i khắp mười ngàn thế giới bằng giọng nói như Đại phạm thiên - trong suốt, dịu dàng và vang xa. Khi ấy có một trăm ngàn chúng sanh gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên chứng ắc Đạo Quả giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ nhất)

Một dịp khác, khi mười triệu vị Sa-môn, là những người cùng xuất gia với Ngài, nghe tin Ngài ã thuyết bài kinh Chuyển pháp luân, bèn i ến vườn Nai gần Yasavatī. Đến nơi, họ ảnh lễ Đức Phật và ngồi xuống ở quanh Ngài. Khi Đức Phật thuyết pháp ến những vị Sa-môn này và những chúng sanh khác ến ể thính pháp, có chín trăm triệu chúng sanh, dẫn ầu là mười triệu vị này, tất cả ều chứng ắc Đạo Quả giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ hai)

Lại một dịp khác, khi nhân loại và chư thiên tranh luận về những iều hạnh phúc (maṅgala) dẫn ến sự hưng thịnh trong thế gian, nhưng không thể có câu trả lời thỏa áng cho tất cả. Họ nêu ra câu hỏi này ến Đức Phật, Ngài bèn thuyết ến họ bài kinh Hạnh phúc. Cuối thời pháp có sáu trăm triệu chư thiên và nhân loại chứng ắc Đạo Quả giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ ba).

Ba kỳ ại hội Thánh Tăng – Sannipāta 

Có ba kỳ ại hội chư Thánh Tăng, ệ tử của Đức Phật Tissa - kỳ ại hội thứ nhất diễn ra tại Yasavatī, ở ó Đức Phật cùng với một trăm ngàn vị A-la-hán, những vị ã xuất gia tỳ khưu lúc bắt ầu mùa an cư và chứng ắc ạo quả A-la-hán trong mùa an cư, ã làm lễ tự tứ Visuddhi Pavarana vào ngày rằm tháng Assayuja.

(Đây là Sannipāta lần thứ nhất)

Một dịp khác, khi Đức Phật ang trên ường du hành ã ến tại kinh ô Narivahana, thái tử Narivahana, con trai của vua Sujata ở tại kinh ô cùng với tùy tùng, ã ón tiếp Đức Phật rồi tổ chức Vô song thí cúng dường vật thực ến Đức Phật và chúng Tăng trong bảy ngày. Sau khi trao vương quốc cho con trai, vị ấy cùng tùy tùng xin Đức Phật truyền phép xuất gia. Đức Phật Tissa gọi họ: “Hãy ến, này các tỳ khưu”. Và tất cả họ ều trở thành những vị Thiện lai tỳ khưu. Khi tin tức về sự xuất gia của vua Narivahana ược truyền i, dân chúng từ khắp bốn phương i ến và cũng theo gương vị ấy. Rồi giữa hội chúng tỳ khưu gồm chín triệu vị, Đức Phật Tissa tụng Ovāda Pātimokkha.

(Đây là Sannipāta lần thứ hai)

Lại một dịp khác tại kinh ô Khemavatī, giữa hội chúng quyến thuộc của Đức Phật, sau khi nghe Đức Phật Tissa kể về lịch sử của chư Phật, tám triệu người ã trở thành Thiện lai tỳ khưu trước sự chứng minh của Đức Phật và chứng ắc ạo quả A-la-hán. Giữa hội chúng những vị tỳ khưu này, Đức Phật Tissa tụng Ovāda Pātimokkha.

(Đây là Sannipāta lần thứ ba)

              Bồ tát Gotama của chúng ta là ẩn sĩ Sujata và ược 

                                     Đức Phật Tissa thọ ký 

Lúc bấy giờ Bồ tát của chúng ta là vua Sujāta ở kinh ô Yasavatī, kinh ô của vị ấy rất thịnh vượng, tài sản của vua trị giá nhiều chục triệu ồng tiền vàng và tùy tùng thì luôn luôn tình nguyện phục vụ vị ấy. Thế mà ức vua ã buông bỏ không chút luyến ái, xem chúng như lau sậy. Với tâm ghê sợ cái khổ của tái sanh, v.v... nên ức vua ã từ bỏ thế gian và trở thành ẩn sĩ (ngay trước khi Đức Phật Tissa xuất hiện) và ạt ược ại thần thông lực cùng danh tiếng. Nghe tin “Đức Phật ã xuất hiện,” toàn thân của vị ấy tràn ngập năm loại phỷ lạc với tâm ầy kính ngưỡng, vị ấy i ến Đức Phật và ảnh lễ Ngài, nghĩ rằng: “Ta sẽ tôn vinh Đức Phật bằng những loại hoa như salala, paricchattaka và những loại hoa khác.” Vị ấy vận dụng thần thông i ến cõi chư thiên và i vào vườn Cittalata, ở ó người ấy bỏ ầy cái giỏ lớn một gāvuta những loại thiên hoa ấy và em nó bay xuyên qua bầu trời, rồi em cúng dường Đức Phật những loài hoa cực kỳ thơm ngát.

Ngoài ra, giữa hội chúng gồm bốn hạng người, Bồ tát ứng che Đức Phật bằng cái lọng Paduma, ó là cái lọng bằng những phấn hoa kết lại thơm ngát, cán lọng bằng hồng ngọc. Vị ấy ã tôn vinh Đức Phật như thế. Rồi Đức Phật Tissa công bố lời tiên tri ến Bồ tát, ạo sĩ Sujāta: “Sau chín mươi hai ại kiếp kể từ nay, vị ạo sĩ Sujāta này sẽ trở thành một vị Phật, danh hiệu là Gotama.”

Được nghe lời tiên tri của Đức Phật, Bồ tát Sujāta rất tin tưởng và vô cùng vui sướng, nguyện thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật tinh tấn hơn.

Những chi tiết ặc biệt về Đức Phật Tissa 

Nơi sanh của Đức Phật Tissa là kinh ô Khemaka; phụ vương là vua Janasandha và mẫu hậu là hoàng hậu Padumā. 

Ngài trị vì vương quốc trong bảy ngàn năm. Ba cung iện của Ngài là Guhāsela, Nārisaya và Nisabha.

Chánh hậu là Subhaddā, có ba mươi ngàn cung nữ hầu hạ. Con trai là hoàng tử Ānanda.

Sau khi trông thấy bốn iềm tướng, Ngài i xuất gia cỡi trên tuấn mã Sonuttara. Ngài thực hành khổ hạnh trong tám tháng.

Hai vị Thượng thủ Thinh văn là trưởng lão Brahmadeva và trưởng lão Udaya. Thị giả là trưởng lão Samanga.

Hai ại ệ tử nữ là trưởng lão ni Phussā và trưởng lão ni Sudattā. Cây giác ngộ là cây Asana.

Hai cận sự nam bậc thánh là hai vị trưởng giả Sambala và Sirimā. Hai cận sự nữ bậc thánh là Ưu-bà-di Kisā Gotamī và Ưu-bà-di Upasena.

Đức Phật Tissa cao mười hắc tay, Ngài xuất hiện trước mọi người như ngọn núi ở dãy Hy-mã-lạp-sơn.

Đức Phật Tissa, bậc có thần thông lực vô song, có thọ mạng không quá ngắn cũng không quá dài. Đức Phật Tissa, bậc có ngũ nhãn, sống trong thế gian thọ một trăm ngàn tuổi.

                                            Kinh cảm quán 

Đức Phật Tissa, bậc ã xua tan bóng tối của vô minh, sau khi thành ạt danh tiếng lớn vượt trội danh tiếng của những bậc cao nhân, ã viên tịch ại Niết bàn cùng với chúng Thanh văn ệ tử A-la-hán của Ngài như khối lửa lớn ã tắt lịm sau khi ã cháy sáng rực rỡ.

Bảo tháp 

Như vậy, Đức Phật Tissa, bậc chiến thắng Ngũ ma, ã viên tịch ại Niết bàn ở vườn Nanda, gần thành phố Sunandavatī. Tại khu vườn này, một bảo tháp cao ba do tuần ược xây dựng ể tôn thờ Xá-lợi của Đức Phật tissa.

Kết thúc lịch sử Đức Phật Tissa - Tissa Buddhavaṃsa  

]œ

 

                             18. Phussa Buddhavaṁsa                              (Lịch sử Đức Phật Phussa) 

Sau khi Đức Phật Tissa viên tịch Đại Niết bàn, trong ại kiếp Manda kappa có hai vị Phật ấy, thọ mạng của loài người giảm dần từ một trăm ngàn tuổi còn mười tuổi và lại tăng lên ến A-tăng-kỳ tuổi. khi thọ mạng loài người giảm xuống chín chục ngàn tuổi, lúc ấy Bồ tát Phussa ã tái sanh vào cung trời Đâu suất à sau khi ã thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật. Nhận lời thỉnh cầu của chư thiên và Phạm thiên ể thành Phật, Bồ tát xuống cõi nhân loại và thọ sanh vào lòng của bà Sirimā, chánh hậu của vua Jayasena, tại kinh ô Kāsika. Mười tháng trôi qua, Bồ tát ản sanh tại vườn Sirima.

Đời sống ở vương cung 

Khi thái tử Phussa ến tuổi trưởng thành, Ngài sống trong ba cung iện Garulapekkha, Haṁsa và Suvaṇṇabhāra, ược hầu hạ bởi ba chục ngàn cung nữ, dẫn ầu là công chúa Kisā Gotamī. Ngài sống cuộc ời ế vương như ở cõi chư thiên trong chín ngàn năm.

Sự xuất gia 

Khi Bồ tát thái tử trông thấy bốn iềm tướng và sau khi công chúa

Kisā Gotamī ã hạ sanh một hoàng nam ặt tên là Anupama, Ngài i xuất gia cỡi trên con voi kiết tường. Mười triệu người cũng noi theo gương Ngài mà trở thành những vị Sa-môn.

Sự thành ạo 

Cùng với mười triệu vị Sa-môn này, Bồ tát Phussa thực hành khổ hạnh trong sáu tháng. Sau ó rời bỏ ồ chúng, Ngài hành pháp ộc cư trong bảy ngày. Vào ngày rằm tháng tư, ngày thành ạo của Ngài, Bồ tát Phussa ộ món cơm sữa do Sirivaḍḍhā dâng cúng, con gái của một vị trưởng giả ở một thọ trấn nọ và trải qua suốt ngày trong rừng cây Samsapa của ịa phương. Đến chiều, Ngài một mình i ến cây ại bồ ề Āmaṇḍa và trên ường i nhận tám nắm cỏ do ạo sĩ Sirivaḍḍha dâng tặng. Khi Ngài vừa rải mớ cỏ xuống cội cây bồ ề thì Vô ịch bảo tọa cao ba mươi tám hắc tay xuất hiện. Ngồi kiết già trên bảo tọa, Ngài chứng ắc Phật quả cùng cách của các chư Phật trong quá khứ..

Ba Thắng thời thuyết pháp của Đức Phật Phussa (Dhammābhisamaya) 

Sau khi thành ạo, Đức Phật Phussa trú ngụ ở bảy chổ quanh khu vực cây ại Bồ ề trong bốn mươi chín ngày. Nhận lời thỉnh cầu của Đại phạm thiên ể thuyết pháp tế ộ chúng sanh, Ngài quán xét xem nên thuyết pháp ến ai trước và trông thấy mười triệu vị Sa-môn là những người ã từng xuất gia theo Ngài, có ầy ủ phước quá khứ dẫn ến Đạo Quả. Rồi Ngài lập tức bay xuyên qua hư không ến khu vườn nai Isipatana, gần thành phố Sankhassa. Giữa những vị Sa-môn ấy, Đức Phật thuyết bài kinh Chuyển pháp luân ến tất cả ồ chúng như chư Phật quá khứ ã từng làm. Khi ấy có mười trăm ngàn triệu chư thiên và nhân loại chứng ắc Đạo Quả giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ nhất)

Một dịp khác, vua Sirivaḍḍhā của xứ Bārāṇasī, sau khi từ bỏ tài sản giàu có của mình, xuất gia làm Sa-môn và chín triệu người cũng xuất gia theo nhà vua. Đức Phật Phussa i ến chỗ ngụ của những vị ạo sĩ này và thuyết pháp ến họ. Chín triệu chúng sanh ã chứng ắc Đạo Quả giải thoát sau khi nghe thời pháp của Đức Phật.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ hai)

Lại một dịp khác, Đức Phật Phussa thuyết pháp ến con trai của Ngài, là hoàng tử Anupama. Khi ấy có tám triệu chư thiên và nhân loại chứng ắc Đạo Quả giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ ba)

Ba kỳ ại hội Thánh Tăng – Sannipāta  

Có ba kỳ ại hội Thánh Tăng ệ tử của Đức Phật Phussa. Kỳ ại hội thứ nhất diễn ra ở Kaṇṇakujja, ở ó thái tử Surakkhita và chàng thanh niên Dhammasena - con trai của vị quốc sư,  là hai vị Thượng thủ Thinh văn tương lai và dân cư, sáu triệu người ã ón tiếp Đức Phật nhân chuyến viếng thăm của Ngài ến kinh ô. Họ cũng thiết trai tăng cúng dường Đức Phật và chúng Tăng trong bảy ngày. Sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp, hai vị hoàng tử khởi tâm tịnh tín và trở thành sa-môn cùng với sáu triệu tùy tùng ều chứng ắc ạo quả A-lahán. Giữa hội chúng những vị A-la-hán ấy, Đức Phật Phussa tụng Ovāda Pātimokkha.

(Đây là Sannipāta lần thứ nhất)

Một dịp khác, trong hội chúng quyến thuộc của Ngài dẫn ầu là phụ vương Jayasena của Ngài ở kinh ô Kasika, Đức Phật kể lại lịch sử của chư Phật. Sau khi nghe Phật sử kinh, năm triệu người ã trở thành Thiện lai tỳ khưu và chứng ắc ạo quả A-la-hán. Giữa hội chúng gồm năm triệu vị A-la-hán này, Đức Phật tụng Ovāda Pātimokkha.

(Đây là Sannipāta lần thứ hai)

Lại một dịp khác, khi nhân loại và chư thiên bàn về những iều hạnh phúc dẫn ến sự hưng thịnh trong thế gian nhưng không thể có ược câu trả lời thỏa áng cho tất cả, và khi họ nêu ra câu hỏi ấy ến Đức Phật Phussa, Ngài bèn thuyết bài kinh Hạnh phúc Maṅgala Sutta. Sau khi nghe bài kinh ấy, bốn triệu người ã trở thành Thiện lai tỳ khưu và chứng ắc ạo quả A-la-hán. Giữa hội chúng những vị A-lahán này, Đức Phật tụng Ovāda Pātimokkha.

(Đây là Sannipāta lần thứ ba)

           Bồ tát Gotama của chúng ta là vua Vijitāvī và ược 

                              Đức Phật Phussa thọ ký 

Lúc bấy giờ, Bồ tát của chúng ta là vua Vijitāvī, ở kinh ô Arindama. Sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp, vị ấy khởi tâm tịnh tín nơi Đức Phật, thiết lễ ại thí cúng dường vật thực, từ bỏ vương quốc, trở thành vị tỳ khưu và thông thuộc Tam tạng. Nhờ thông suốt Tam tạng, vị ấy truyền bá giáo pháp ến tất cả mọi người. Bồ tát cũng thực hành viên mãn giới Ba-la-mật.

Đức Phật Phussa, bậc Thế Tôn của ba cõi, công bố lời tiên tri về Bồ tát Vijitāvī như sau: “Sau chín mươi hai ại kiếp kể từ nay, vị tỳ khưu Vijitāvī này sẽ trở thành một vị Phật, danh hiệu là Gotama.”

Được nghe lời tiên tri của Đức Phật Phussa, Bồ tát Vijitāvī ầy tin tưởng và nguyện thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật tinh tấn hơn.

Sau khi trở thành vị tỳ khưu và người hầu trong giáo pháp của Đức Phật Phussa và thông suốt chín phần giáo pháp của Đức Phật cùng với Kinh và Luật, Bồ tát ã góp phần làm sáng chói Giáo pháp của Đức Phật.

Những chi tiết ặc biệt về Đức Phật Phussa 

Nơi sanh của Đức Phật Phussa là kinh ô Kāsika, phụ vương là vua Jayasena và mẫu hậu là hoàng hậu Sirimā.

Ngài trị vì vương quốc chín ngàn năm. Ba cung iện là Garulapakkha, Haṃsa và Suvaṇṇabhāra.

Chánh hậu là Kisā Gotamī, dẫn ầu ba mươi ngàn cung nữ. Con trai là hoàng tử Anupama.

Ngài i xuất gia cỡi trên con voi và hành khổ hạnh trong sáu tháng.

Hai vị Thượng thủ Thinh văn là trưởng lão Surakkhita và trưởng lão Dhammasena.Thị giả là trưởng lão Sabhiya.

Hai ại ệ nữ là trưởng lão ni Cāla và trưởng lão ni Upacāla. Cây giác ngộ là cây Āmanda.

Hai cận sự nam bậc Thánh là hai vị trưởng giả Dhanañjaya và Visakha. Hai cận sự nữ bậc Thánh là Ưu-bà-di Padumā và Ưu-bà-di Nagā.

Đức Phật Phussa cao năm mươi tám hắc tay. Ngài chiếu sáng như mặt trời và có những phẩm chất khả ái như mặt trăng.

Thọ mạng trong ại kiếp mà Ngài xuất hiện là chín chục ngàn năm. Sống suốt bốn phần năm của thọ mạng, Đức Phật Phussa ã cứu vớt cho vô số chúng sanh gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên thoát khỏi những dòng nước lũ luân hồi và ặt họ lên miền ất Niết bàn. 

Kinh cảm quán

Đức Phật Phussa có danh tiếng vô song cùng nhiều vị Thanh văn ệ tử A-la-hán ã viên tịch ại Niết bàn và ã chấm dứt kiếp sống cuối cùng.

Bảo tháp 

Như vậy Đức Phật Phussa, Bậc chiến thắng ngũ ma, ã viên tịch ại Niết bàn tại vườn Sena, gần thành phố Kusināra. Theo úng với ý nguyện của Ngài, như ã giải thích ở trước, Xá lợi ược phân tán và có mặt ở khắp cõi diêm phù ề, ược nhân loại, chư thiên và Phạm thiên ngày êm lễ bái cúng dường.

Kết thúc lịch sử Đức Phật Phussa - Phussa Buddhavaṃsa

]œ

 

                              19. Vipassī Buddhavaṁsa                             (Lịch sử Đức Phật Vipassī) 

Khi ại kiếp mà Đức Phật Phussa xuất hiện ã kết thúc, cách kiếp hiện tại này chín mươi mốt ại kiếp, Đức Phật Vipassī xuất hiện trong ại kiếp ấy. Lịch sử của Đức Phật Vipassī diễn ra như sau:

Trong ại kiếp thứ chín mươi mốt, khi thọ mạng của loài người giảm từ A-tăng-kỳ tuổi còn tám chục ngàn tuổi thì Bồ tát Vipassī sau khi ã thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật ã tái sanh vào cõi trời Đâu suất à theo úng truyền thống của chư vị Bồ tát. Nhận lời thỉnh cầu của chư thiên và Phạm thiên ể thành Phật, Bồ tát Vipassī xuống cõi nhân loại và thọ sanh vào lòng bà Bandhumatī, chánh hậu của vua Bandhuma, ở kinh ô Bandhumatī. Khi mười tháng trôi qua, Bồ tát ản sanh ở vườn Migadāya, một khu vườn ầy nai mang tên Khema.

                                   Hiện tượng kỳ diệu 

Khi Bồ tát ản sanh, bất cứ nơi nào Ngài ến dù ban ngày hoặc ban êm, luôn luôn có cái lọng trắng khổng lồ của chư thiên che trên ầu Ngài ể bảo vệ Ngài khỏi bị nóng và lạnh, bụi bậm và sương giá. Bồ tát hằng ược mọi người tôn kính. Ngài luôn ược nuôi dưỡng trong vòng tay người vú nuôi này ến người vú nuôi khác, không có cơ hội ể ặt chân xuống ất.

Ý nghĩa của tên gọi Vipassī 

Từ khi sanh ra Ngài có ôi mắt khác thường gọi là kammavipākaja ( ôi mắt sanh lên do kết quả của những phước nghiệp quá khứ của Ngài), kỳ diệu như ôi mắt của chư thiên. Với ôi mắt này, Bồ tát có thể trông thấy xa một do tuần mà không bị bất cứ vật gì ngăn ngại dù ngày hoặc êm. Cũng như chư thiên ở cõi Đao lợi thiên thấy sự vật với ôi mắt luôn luôn mở, Bồ tát cũng nhìn thấy các sự vật với ôi mắt không bao giờ nhắm lại mà luôn luôn mở kể từ khi sanh ra. Vì vậy cái tên nổi tiếng của Ngài ược người ta ặt cho là Vipassī.

Ngoài ra, một hôm nọ trong khi một vụ kiện ang ược xét xử giữa triều ình với sự tham dự của vua Bandhuma, thái tử Vipassī với y phục chỉnh tề ược trao ến ức vua. Đức vua ể thái tử ngồi trên ùi của mình và trong khi thái tử ang ùa giỡn với nhà vua thì các quan phán xử bác bỏ quyền sở hữu tài sản của một chủ nhân nọ, phán rằng ông ta không phải là sở hữu chủ. Không hài lòng với quyết ịnh bất công, thái tử ột nhiên khóc ré lên. Đức vua yêu các quan tìm hiểu nguyên nhân, nói rằng: “Tại sao con trai của trẫm lại khóc như thế? Hãy tìm hiểu vấn ề.” Khi họ tra xét thì thấy rằng không có nguyên nhân nào khác ngoài việc các quan ã phán xét sai lầm. Bởi vậy các quan phải phán quyết ngược lại, công nhận quyền sở hữu của chủ nhân tài sản. Khi ấy thái tử vừa lòng với lời phán quyết, bèn ngưng không khóc nữa. Để tìm hiểu xem “Liệu có phải thái tử khóc do biết rõ vụ kiện ó không?” họ bèn phán quyết như lúc ban ầu. Và thái tử lại khóc như trước. khi ấy chỉ vua cha mới nhận ra rằng: “Con trai của ta quả thật biết iều gì úng, iều gì sai.” Kể từ ó ức vua trị vì vương quốc không hề khinh suất.

Từ ó trở i, tên Vipassī của Bồ tát càng nổi tiếng hơn do khả năng phân biệt úng sai của Ngài.

Đời sống ở vương cung 

Khi thái tử Vipassī ến tuổi trưởng thành, Ngài sống trong ba cung iện Nanda, Sunanda và Sirimā, ược hầu hạ bởi các cung nữ, dẫn ầu là công chúa Sudassanā (hay Sutanu). Ngài thọ hưởng hạnh phúc của cuộc ời ế vương như hạnh phúc của chư thiên trong tám ngàn năm.

Bốn iềm tướng 

Một hôm nọ thái tử Vipassī gọi người ánh xe của Ngài ến và nói rằng: “Ta muốn ngoạn cảnh ở vườn thượng uyển. Ta sẽ i ến ó.” Trên ường i ến vườn thượng uyển trên chiếc xe song mã, Bồ tát trông thấy một người già do chư thiên hóa hiện ra. (Vì Ngài chưa bao giờ thấy người già như vậy nên rất lạ lùng), thái tử hỏi: “Này xa phu, người này ang làm gì thế? Đầu tóc cũng như thân thể của người ấy trông không giống những người khác.”

“Thưa Thái tử iện hạ, ây là người già.” Xa phu trả lời.

Thái tử lại hỏi: “Thế nào là người già?” Xa phu áp:

  • Thưa Thái tử iện hạ, người già là người cao tuổi. Ông ta không thể sống lâu hơn nữa.
  • Này xa phu, ta có già không? Phải chăng ta cũng sẽ già?
  • Thưa Thái tử, vâng. Thái tử, hạ thần và tất cả mọi người ều phải già. Không ai có thể thoát khỏi tuổi già.

Rồi Bồ tát nói:

  • Ta không muốn ngoạn cảnh nữa. Hãy cho xe quay về hoàng cung.”

Khi trở về hoàng cung, Bồ tát nghiền ngẫm: “Ôi, sự sanh thật áng chán. Khi có sanh ắt phải có già.” Suy nghĩ như vậy, Thái tử trở nên rất ưu tư.

Sau khi nghe phu xa tâu lại vấn ề, vua cha truyền cung cấp nhiều phương tiện thọ hưởng dục lạc hơn truóc ể ngăn Thái tử i xuất gia.

Nhiều ngàn năm sau ó, khi Thái tử i ến vườn thượng uyển lần thứ hai và thấy một người bịnh trên ường i, Ngài không i tiếp mà quay trở về hoàng cung như trước. Khi vua cha biết ược trạng thái ưu tư và trầm ngâm của con trai, vị ấy lại em ến cho Thái tử nhiều dục lạc hơn nữa.

Trong chuyến i ến vườn thượng uyển lần thứ ba cũng sau nhiều ngàn năm, sau khi trông thấy một người chết, Thái tử cũng quay về hoàng cung như trước.

Lại nhiều năm sau khi Thái tử i ến vườn thượng uyển lần thứ tư, Ngài tình cờ gặp một vị Sa-môn trên ường i và hỏi phu xa về vị samôn. Khi biết ược Sa-môn là người như thế nào rồi, Thái tử rất vui sướng và cho xe i về hướng vị Sa-môn.

Khi ến gần vị Sa-môn, Thái tử hỏi chi tiết về ời sống Sa-môn và lấy làm vui sướng hơn. Do ó, Thái tử bảo xa phu: “Này xa phu, hãy em xe về hoàng cung và ể nó ở ó. Ta sẽ xuất gia Sa-môn ngay tại chỗ này.” Thái tử ã cho xa phu trở về như vậy. Cũng vào ngày hôm ấy, công chúa Sudassanā hạ sanh một hoàng nam           ặt tên là Samvattakkhandha.

Sau khi cho xa phu trở về, Thái từ Vipassī cắt tóc, mặc vào chiếc y vàng và trở thành vị sa-môn. (dầu không thấy ề cập y và bát do âu mà có, nhưng chúng ta nên hiểu là theo úng truyền thống, chúng ược các vị Phạm thiên ở cõi Ngũ tịnh cư (Suddhavāsā Brahma) dâng tặng).

Khi ấy có tám mươi bốn ngàn dân cư của thành phố Bandhumatī, sau khi nghe tin Thái tử ã xuất gia, cũng theo gương vị ấy và xuất gia sa-môn.

Sự thành ạo 

Cùng với tám mươi bốn ngàn vị Sa-môn này, Bồ tát Vipassī du hành qua các làng mạc, thị trấn và phố phường. Bất cứ nơi nào Ngài i ến dân chúng ều dựng lên những giả ốc, và tổ chức cúng dường vật thực to lớn. Nhưng Bồ tát không còn thích thú trong những cuộc bố thí như vậy nữa. Tám tháng sau, vào ngày mười bốn tháng tư, Ngài bỗng có ý nghĩ như vầy: “Thật không thích hợp ể sống chung với những tùy tùng của ta. Ta cần phải sống một mình và tách lìa họ.” Bồ tát xa rời ồ chúng. Vào ngày rằm tháng tư, ngày thành ạo của Ngài, Bồ tát Vipassī ộ món cơm sữa do Sudassanā dâng cúng, con gái một vị trưởng giả nọ và trải qua suốt ngày trong rừng cây sala ở gần ó. Đến chiều Ngài i ến cây ại bồ ề Pātali và trên ường i, nhận tám nắm cỏ từ một người canh giữ ruộng lúa tên Sujata. Khi Ngài vừa rải mớ cỏ xuống cội cây bồ ề thì Vô ịch bảo tọa cao năm mươi ba hắc tay xuất hiện.

Thân của cây Pātali cao năm mươi hắc tay, những cành nhánh chính của nó cũng dài năm mươi hắc tay; Như vậy,  cây này cao một trăm hắc tay. Ngày Bồ tát i ến cây Pātali , trông nó tựa như ược bao phủ từ gốc tới ngọn bởi những bông hoa thơm ngát. Cây tỏa ra những mùi hương cõi thiên giới. Vào ngày hôm ấy, không chỉ cây Bồ ề Pātali mà tất cả cây cối trong mười ngàn thế giới ều ra hoa.

Ngồi kiết già trên bảo tọa, Bồ tát vận dụng bốn mức ộ tinh tấn và chứng ắc Phật quả theo cách diễn ạt của chư Phật quá khứ.

 Ba Thắng thời thuyết pháp của Đức Phật Vipassī  (Dhammābhisamaya)  

Sau khi thành ạo, Đức Phật trú ngụ ở bảy chỗ quanh khu vực cây Bồ ề trong bốn mươi chín ngày. Sau khi nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên, Ngài suy xét nên thuyết pháp ến ai trước và trông thấy người em khác mẹ, hoàng tử Khandha và chàng thanh niên Tissa, con trai của vị quốc sư - Họ là những vị Thượng thủ Thinh văn tương lai có ầy ủ phước quá khứ dẫn ến sự chứng ắc Đạo Quả, Đức Phật Vipassī lập tức vận dụng thần thông i xuyên qua hư không ến khu vườn nai Khema. Sau khi ến ó, Ngài bảo người giữ vườn i gọi hoàng tử Khandha và chàng thanh niên Tissa. Khi họ ến, Ngài khuyên họ hãy xuất gia và thuyết giảng bài kinh Chuyển pháp luân ến tất cả chư thiên, nhân loại và Phạm thiên ã cu hội ở ó ể thính pháp. Khi ấy có vô số chư thiên và nhân loại, dẫn ầu là hoàng tử Khandha và chàng thanh niên Tissa. Tất cả ều chứng Đạo Quả giải thoát.

Đặc biệt, hoàng tử Khandha và thiện nam tử Tissa ã trở thành Thiện lai tỳ khưu và chứng ắc ạo quả A-la-hán không lâu sau ó.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ nhất)

Một dịp khác, hay tin “Đức Phật Vipassī ã ến vườn nai, gần Bandhumatī” và “hoàng tử Khaṇḍha cùng chàng trai Tissa, con trai của vị quốc sư ã xuất gia tỳ khưu trước sự chứng minh của Đức Phật, tám mươi bốn ngàn thiện nam tử của thành phố Bandhumatī cũng i ến và xuất gia tỳ khưu. Đức Phật ban bố ‘nước bất tử’ ến tám mươi bốn ngàn vị Sa-môn này.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ hai)

Tám mươi bốn ngàn người thuộc nhóm tùy tùng trong khi Đức Phật Vipassī còn là thái tử ã ến hầu hạ Ngài lúc sáng sớm, ngày mà Bồ tát i ến vườn thượng uyển lần thứ tư và cũng là ngày xuất gia. Khi họ không thấy Thái tử ở hoàng cung, họ bèn trở về nhà ể dùng bữa ăn sáng. Sau khi ăn xong, họ i dò hỏi về Thái tử thì hay tin rằng Thái tử ã i ến vườn thượng uyển, họ bèn i ến ó ể gặp Thái tử.

Trên ường i họ gặp vị xa phu của Thái tử và biết ược rằng Ngài ã xuất gia. Ngay tại chỗ ó, họ bèn cởi bỏ tất cả y phục của người cư sĩ, cạo râu tóc và trở thành Sa-môn trong chiếc y mua ở chợ về. Tám mươi bốn ngàn vị Sa-môn này i ến Bồ tát Vipassī và ngồi xuống quanh Ngài. Giữa các vị Sa-môn, Bồ tát thực hành khổ hạnh trong tám tháng. Vào ngày mười bốn tháng tư, Bồ tát cảm thấy không muốn ở chung với ồ chúng và suy nghĩ: “Ta ã ở chung với họ quá lâu rồi. Khi còn là Thái tử, bất cứ i âu cũng có tám mươi bốn ngàn người này theo ta. Bây giờ thì không thích hợp ể họ i chung với ta. Nhóm người như vậy có ích gì.” Bồ tát suy nghĩ: “Ta sẽ rời bỏ họ ngay ngày hôm nay.” Nhưng Ngài lại thay ổi ý nghĩ: “Hôm nay hầu như không còn thời gian ể làm việc ó. Nếu ta i bây giờ thì tất cả họ sẽ biết. Tốt hơn ta nên i vào ngày mai.”

Lúc bấy giờ, dân cư của một ngôi làng nọ ang bận rộn nấu món cơm sữa ể cúng dường Bồ tát và 84 ngàn ồ chúng của Ngài vào hôm sau. Và ến ngày hôm sau, nhằm ngày rằm tháng tư, Bồ tát Vipassī cùng tùy tùng ộ món cơm sữa rồi trở về chỗ ngụ ở trong rừng.

Về ến ó, các vị Sa-môn sau khi làm các phận sự ến Bồ tát, họ rút về chỗ ngụ riêng của mình. Khi ấy, Bồ tát ang ở trong thảo am mới quyết ịnh “Đây là lúc thuận tiện nhất ể ta ra i.” Ngài rời khỏi thảo am, óng cửa và i ến cây ại Bồ ề.

Đến chiều các vị Sa-môn i ên tịnh thất của Bồ tát ể hầu hạ Ngài và ứng ợi quanh thảo am, chờ gặp vị thầy của họ. Sau một thời gian dài, họ nói với nhau rằng: “Lâu quá rồi mà không thấy ạo sư của chúng ta. Chúng ta hãy tìm xem.” Rồi họ mở cửa thảo am và nhìn vào trong nhưng không thấy Bồ tát. Họ tự hỏi: “Đạo sư của chúng ta ã i âu?” rồi cùng ra sức tìm kiếm Ngài. “Chắc ạo sư không muốn ở chung với chúng ta và thích ở một mình. Chúng ta sẽ gặp lại Ngài khi Ngài ã thành Phật.” Với những ý nghĩ như vậy, họ rời khỏi chỗ ngụ và i vào nội ịa của xứ Diêm phù ề.

Về sau khi nghe tin, “Thái tử Vipassī ã thành Phật và ã thuyết bài kinh Chuyển pháp luân”, tất cả bèn i ến khu vườn nai Khema, gần thành phố Bandhumatī. Đức Phật thuyết pháp ến họ. Cuối thời pháp, tám mươi bốn ngàn vị Sa-môn chứng ắc Đạo Quả giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ ba)

Ba kỳ ại hội Thánh Tăng – Sannipāta 

Có ba kỳ Đại hội Thánh Tăng ệ tử của Đức Phật Vipassī, kỳ Đại hội thứ nhất diễn ra ở vườn Nai Khema. Giữa hội chúng gồm tám mươi bốn ngàn vị tỳ khưu, là những vị ã từng i theo Đức Phật và tám mươi bốn ngàn vị tỳ khưu thuộc hội chúng của hoàng tử Khandha và hoàng tử Tissa - con trai của vị quốc sư; tổng cộng một trăm sáu chục ngàn tỳ khưu. Đức Phật Vipassī ã tụng Ovāda Pātimokkha giữa hội chúng này.

 (Đây là Sannipāta lần thứ nhất)

Một dịp khác, giữa ại hội gồm một một trăm ngàn vị tỳ khưu ã xuất gia sau khi chứng kiến Đức Phật thị hiện Song thông.

  (Đây là Sannipāta lần thứ hai)

Lại một dịp khác, ba người em cùng cha khác mẹ của Đức Phật Vipassī nhân chuyến trở về sau khi dẹp yên cuộc nổi loạn ở biên giới, ược phụ vương của họ ban cho các ặc ân mong muốn. Các vị hoàng tử bèn nói rằng: “Chúng con ược phép nói ra lời cầu ước. Vậy chúng con không xin ặc ân nào khác ngoài việc ược hầu hạ người anh cả của chúng con.” Được phụ vương chấp nhận, họ thỉnh Đức Phật về các thị trấn và làng mạc dưới quyền của họ rồi thiết lễ cúng dường Ngài. Đức Phật thuyết pháp ến họ, kết quả là có tám chục ngàn người trở thành Thiện lai tỳ khưu và chứng ắc ạo quả A-la-hán.

Tại khu vườn nai Khemaka, giữa hội chúng gồm tám chục ngàn vị A-la-hán ấy, Đức Phật Vipassī ã tụng Ovāda Pātimokkha.

  (Đây là Sannipāta lần thứ ba)

Bồ tát Gotama của chúng ta sanh làm Long vương Atula và ược

Đức Phật Vipassī thọ ký 

Lúc bấy giờ, Bồ tát của chúng ta là Long vương Atula có ại thần thông lực. Trong hội chúng gồm nhiều chục triệu vị rồng ang tấu những khúc nhạc thần tiên, Bồ tát i ến Đức Phật Vipassī. Tôn vinh Đức Phật và chúng Tăng, vị ấy thỉnh chư Tăng có Đức Phật dẫn ầu về chỗ ngụ của vị ấy. Long vương ã xây dựng một giả ốc ược trang hoàng bằng bảy loại châu báu, trông xinh ẹp như vầng trăng rằm. Trong giả ốc ấy, Long vương ã tổ chức lễ bố thí cúng dường ến Đức Phật và chúng Tăng trong bảy ngày. Vị ấy cũng cúng dường ến Đức Phật một chiếc trường kỷ trang hoàng rất lộng lẫy.

Ngồi giữa chúng Tăng, Đức Phật ban bố một thời pháp ể tán dương công ức bố thí cúng dường của Long vương. Lúc kết thúc thời pháp, Đức Phật công bố lời tiên tri về Long vương Atula: “Sau chín mươi mốt ại kiếp kể từ nay, vị Long vương này sẽ thành Phật, danh hiệu là Gotama.”

Sau khi nghe lời tiên tri của Đức Phật, Bồ tát Atula rất hoan hỷ và nguyện thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật tinh tấn hơn.

Những chi tiết ặc biệt về Đức Phật Vipassī 

Nơi sanh của Đức Phật Vipassī là kinh ô Bandhumatī, phụ vương là vua Bandhuma và mẫu hậu là hoàng hậu Bandhumatī.

Ngài trị vì vương quốc trong tám ngàn năm. Ba cung iện là Nanda, Sananda và Sirimā.

Chánh hậu là Sudassanā, người có một trăm hai chục ngàn cung nữ hầu hạ. Con trai là hoàng tử Samavattakkhandha.

Sau khi trông thấy bốn iềm tướng Ngài i xuất gia bằng xe song mã và thực hành khổ hạnh trong tám tháng.

Hai vị Thượng thủ Thinh văn là trưởng lão Khaṇḍha và trưởng lão Tissa. Thị giả là trưởng lão Asoka.

       Hai    ại              ệ tử nữ là trưởng lão ni Candā và trưởng lão ni

Candamittā. Cây giác ngộ là cây Pātali.

Hai cận sự nam bậc Thánh là hai vị trưởng giả Punabbasumitta và Nāga. Hai cận sự nữ bậc thánh là Ưu-bà-di Sirimā và Ưu-bà-di Uttarā.

Đức Phật Vipassī, Đức Thế Tôn của ba cõi, Ngài cao tám mươi hắc tay. Hào quang tự nhiên từ thân của Ngài chiếu xa bảy do tuần.

Thọ mạng trong thời kỳ của Đức Phật Vipassī là tám chục ngàn tuổi. Sống suốt bốn phần năm của thọ mạng, Ngài cứu vớt cho vô số chúng sanh gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên thoát khỏi những cơn lũ của luân hồi và ặt họ trên miền ất Niết bàn.

Sau khi chiếu sáng bằng ánh sáng của giáo pháp và thuyết giảng về Niết bàn bất tử, Đức Phật Vipassī cùng với chúng Thinh văn ệ tử Ala-hán cuối cùng ã viên tịch ại Niết bàn như khối lửa lớn chợt tắt sau khi tỏa sáng rực rỡ.

Kinh cảm quán 

Oai lực tôn quý, sự vinh quang tôn quý của Đức Phật Vipassī, kim thân của Ngài với ba mươi hai hảo tướng và tám mươi tướng phụ, tất cả ều biến mất. Các pháp hữu vi quả thật vô ích và không thực chất!

Bảo tháp 

Như vậy Đức Phật Vipassī, bậc chiến thắng ngũ ma, ã viên tịch Đại Niết bàn tại vườn Sumitta. Một bảo tháp cao bảy do tuần ược xây dựng tại chính khu vườn ấy ể cúng dường ến Đức Phật Vipassī.

Kết thúc lịch sử Đức Phật Vipassī - Vipassī Buddhavaṃsa

]œ

 

                                20. Sikhī Buddhavaṁsa                                (Lịch sử Đức Phật Sikhī) 

   

Sau ại kiếp mà Đức Phật Vipassī xuất hiện ã kết thúc, trải qua năm mươi chín ại kiếp không có chư Phật xuất hiện. Vì ó là những Không kiếp, không có ánh sáng của chánh pháp. Thực ra, chỉ có bóng tối của vô minh giăng phủ dày ặc, thiên Ma và phiền não ma ngự trị khắp thế gian mà không có gì ối kháng cả.

Năm mươi chín Không kiếp này trôi qua, cách ại kiếp hiện tại này ba mươi mốt ại kiếp, có hai vị Phật là Phật Sikhī và Phật Vessabhū xuất hiện ( ó là Manda kappa – kiếp có hai vị Phật).

Lịch sử của Đức Phật Sikhī diễn ra như sau: Trong ại kiếp thứ ba mươi mốt ấy, khi thọ mạng của loài người giảm từ A-tăng-kỳ tuổi còn bảy chục ngàn tuổi; sau khi thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật, Bồ tát Sikhī tái sanh vào cung trời Đâu-suất-à. Nhận lời thỉnh cầu của chư thiên và Phạm thiên ể thành Phật, Ngài xuống cõi nhân loại và thọ sanh vào lòng của bà Pabhavatī. Khi mười tháng trôi qua, Bồ tát ản sanh ở vườn Nisabha.

Vào ngày ặt tên của Thái tử, các nhà tướng số thông thái và quyến thuộc của Ngài ặt tên cho Ngài là Sikhī bởi vì chiếc khăn trùm ầu của Ngài, giống như phần thịt ở trên trán (uṇhīsa) chúng thẳng lên như cái mào của con chim công.

Đời sống ở vương cung 

Khi ến tuổi trưởng thành, Bồ tát sống trong ba cung iện tên Sucandaka, Giri và Vasabha. Có hai mươi bốn ngàn cung nữ theo hầu dưới sự hướng dẫn của công chúa Sabbakāmā. Ngài thọ hưởng cuộc sống vương giả như cõi chư thiên trong bảy ngàn năm.

Xuất gia

Khi Bồ tát Sikhī trông thấy bốn iềm tướng và sau khi công chúa Sabbakāmā hạ sanh một hoàng nam ặt tên là Atula, Ngài i xuất gia cỡi trên con voi kiết tường. Bảy triệu người cũng theo gương Ngài và xuất gia làm Sa-môn.

Sự thành ạo 

Cùng với bảy triệu vị Sa-môn này, Bồ tát Sikhī hành pháp khổ hạnh trong tám tháng. Vào ngày rằm tháng tư, ngày thành ạo của Ngài, Ngài rời bỏ các vị Sa-môn ấy, ộ món cơm sữa do Piyadassī dâng cúng, con gái của vị trưởng giả ở thị trấn Sudassanā, và trải qua suốt ngày trong rừng cây keo của ịa phương. Đến chiều Ngài một mình i ến cây ại Bồ ề và trên ường i nhận tám nắm cỏ do một ạo sĩ tên Anomadassī dâng tặng. Khi Bồ tát vừa rải mớ cỏ xuống cội cây Bồ ề thì Vô ịch bảo tọa cao hai mươi ba hắc tay xuất hiện.

Kích thước của cây Bồ-ề Puṇḍarīka giống như kích thước của cây Bồ-ề Pātali của Đức Phật Vipassī. Thân của nó cao năm mươi hắc tay và các nhánh chính của nó cũng dài năm mươi hắc tay tính vào ngày Bồ tát i ến ó. Nó ứng tựa như ược bao phủ bởi những bông hoa thơm ngát của chư thiên. Không chỉ có hoa thôi mà cả quả của nó chen chúc ầy cả cây. Trái non thì nằm bên trong, trái già ở giữa và trái chín ở ngoài có hương vị thơm ngon tựa như chư thiên truyền hương vị ở cõi trời vào trong chúng. Thực ra, tất cả chúng ều có màu sắc và hương vị khác thường. Tương tự, tất cả những cây ăn trái và những cây hoa trong mười ngàn thế giới, ều ra hoa và trái, trong chính ngày hôm ấy.

             Ba Thắng thời thuyết pháp của Đức Phật Sikhī                                         (Dhammābhisamaya)

Sau khi thành ạo, Đức Phật Sikhī trú ngụ ở bảy chỗ quanh khu vực cây Bồ-ề Puṇḍrīka trong bốn mươi chín ngày. Nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên ể thuyết pháp tế ộ chúng sanh, Ngài xem xét nên thuyết pháp ến ai trước, và trông thấy bảy triệu vị Sa-môn kia là những người có ầy ủ phước quá khứ dẫn ến Đạo Quả giải thoát. Đức Phật liền bay qua hư không và áp xuống ở vườn Migājina, nơi mà họ ang trú ngụ, gần kinh ô Arunavatī. Ngồi uy nghiêm giữa hội chúng gồm bảy triệu vị sa-môn, Đức Phật Sikhī thuyết bài kinh Chuyển pháp luân giống như chư Phật quá khứ ã từng thuyết ến chư thiên và nhân loại ã hội họp ở ó ể thính pháp. Khi ấy có mười trăm ngàn triệu chư thiên và nhân loại chứng ắc Đạo Quả giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ nhất)

Về sau cũng tại kinh ô Arunavatī, Đức Phật Sikhī dạy pháp cho hai vị Thượng thủ Thinh văn tương lai là hoàng từ Abhibhu và hoàng từ Sambhava cùng với tùy tùng và ban phát ‘nước bất tử’ ến chín chục ngàn chư thiên và nhân loại.

    (Đây là Dhammābhisamaya lần thứ hai)

Lại một dịp khác gần cây Campaka, Đức Phật thị hiện Song thông và thuyết pháp ể chế phục tánh kiêu ngạo của các ngoại ạo sư và ể giải thoát chúng sanh ra khỏi các trói buộc của phiền não. Lúc bấy giờ, có tám trăm ngàn triệu chư thiên và nhân loại chứng ắc Đạo Quả giải thoát.

  (Đây là Dhammābhisamaya lần thứ ba)

Ba kỳ ại hội Thánh Tăng – Sannipāta 

Có ba kỳ Đại hội chư Thánh Tăng ệ tử của Đức Phật Sikhī. Ở kỳ ại hội thứ nhất, giữa hội chúng gồm một trăm ngàn vị A-la-hán - tùy tùng trước kia của hai vị hoàng tử Abhibhu và Sambhava, Đức Phật Sikhī tụng Ovāda Pātimokkha.

(Đây là Sannipāta lần thứ nhất)

Về sau giữa hội chúng gồm tám chục ngàn vị tỳ khưu ã xuất gia trong dịp Đức Phật viếng thăm quyến thuộc ở kinh ô Arunavati, Đức Phật ã tụng Ovāda Pātimokkha.

(Đây là Sannipāta lần thứ hai)

Lại một dịp khác, giữa hội chúng gồm bảy chục ngàn vị tỳ khưu ã xuất gia trong dịp Đức Phật cảm thắng voi Dhanapālaka ở kinh ô Dhanañjaya, Đức Phật ã tụng Ovāda Pātimokkha.

(Đây là Sannipāta lần thứ ba)

   Bồ tát Gotama của chúng ta sanh làm vua Arindama và ược 

                                Đức Phật Sikhī thọ ký  

Lúc bấy giờ bồ tát của chúng ta là vua Arindama ỏ kinh ô Paribhutta. Khi Đức Phật Sikhī cùng Tăng chúng viếng thăm kinh ô, ức vua ã ón tiếp Đức Phật. Vị ấy cung kính ảnh lễ Đức Phật và thỉnh Ngài ến hoàng cung, ở ó ức vua tổ chức ại lễ bố thí cúng dường Đức Phật và chúng Tăng.

Đức vua mở ra kho chứa y phục và dâng cúng ến chúng Tăng có Đức Phật dẫn ầu hằng chục triệu chiếc y.

Hơn nữa vua Arindama cũng cúng dường ến Đức Phật con voi kiết tường của vị ấy - là con vật có sức mạnh, sắc ẹp, hảo tướng và tốc ộ, lại ược trang sức những tràng hoa và một mạng lưới bằng vàng. Vị ấy cũng dâng cúng chúng Tăng có Đức Phật dẫn ầu các món vật dụng thích hợp với vị Sa-môn.

Rồi Đức Phật Sikhī công bố lời tiên tri về Bồ tát Arindama: “Sau mười ba ại kiếp kể từ nay, vị vua Arindama này sẽ thành Phật, danh hiệu là Gotama.”

Những chi tiết ặc biệt về Đức Phật Sikhī 

Nơi sanh của Đức Phật Sikhī là kinh ô Arunavatī; phụ vương là vua Aruṇa và mẫu hậu là hoàng hậu Pabhāvatī.

Ngài trị vì vương quốc trong bảy ngàn năm. Ba cung iện là Sucandaka, Giri và Vasabha.

Chánh hậu là Sabbakāmā, có hai mươi bốn ngàn cung nữ hầu hạ. Con trai là hoàng tử Atula.

Ngài i xuất gia bằng voi sau khi thấy bốn iềm tướng và thực hành khổ hạnh trong tám tháng.

Hai vị Thượng thủ Thinh văn là trưởng lão Abhibhu và trưởng lão Sambhava. Thị giả là trưởng lão Khemaṅkara.

Hai ại ệ tử nữ là trưởng lão ni Sakhilā và trưởng lão ni Padumā. Cây giác ngộ là cây Puṇḍarīka.

Hai cận sự nam bậc thánh của Đức Phật là hai vị trưởng giả Sirivaḍḍha và Nanda; hai cận sự nữ bậc thánh của Ngài là ưu-bà-di Cittā và ưu-bà-di Suguttā.

Đức Phật Sikhī cao bảy mươi hắc tay. Ngài giống như cột trụ bằng vàng ược dựng lên ể làm vật tôn thờ, Ngài có ba mươi hai hảo tướng của bậc thượng nhân.

Hào quang từ thân của Đức Phật Sikhī chiếu sáng cả êm lẫn ngày không gián oạn, xa ba mươi do tuần.

Thọ mạng trong thời của Đức Phật Sikhī là bảy chục ngàn năm. Trải qua bốn phần năm của thọ mạng, Ngài ưa chúng sanh gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên ra khỏi những cơn lũ của luân hồi và ặt họ trên miền ất Niết bàn.

Sau khi tưới xuống những cơn mưa của chánh pháp, Đức Phật Sikhī ã làm cho tất cả chúng sanh thấm nhuần nước thanh tịnh của chánh pháp, giúp họ ạt ến Niết bàn, chấm dứt khổ luân hồi; và cuối cùng Ngài và chư Thinh văn ệ tử A-la-hán viên tịch ại Niết bàn.

Kinh cảm quán 

Kim thân của Đức Phật với tám mươi tướng phụ như ngón tay, ngón chân ỏ hồng, ược trang sức bởi ba mươi hai hảo tướng của bậc thượng nhân, tất cả ều biến mất. Các pháp hữu vi quả thật vô dụng và không thực chất!

Bảo tháp  

Đức Phật Sikhī ã viên tịch ại Niết bàn tại khu vườn Assa, gần thành phố Sīlavatī; Xá lợi của Ngài kết lại thành một khối không phân tán. Dân chúng khắp cõi Diêm phù ề ã kiến tạo một bảo tháp bằng bảy báu, cao ba do tuần ể tôn thờ Xá lợi của Ngài.

Kết thúc lịch sử của Đức Phật Sikhī - Sikhī Buddhavaṃsa

]œ

 

                       21. Vessabhū Buddhavaṁsa                        (Lịch sử Đức Phật Vessabhū) 

Sau khi Đức Phật Sikhī viên tịch trong chính ại kiếp có hai vị Phật ấy, thọ mạng của loài người giảm từ bảy chục ngàn tuổi còn mười tuổi. Rồi nó lại tăng dần ến A-tăng-kỳ tuổi, và khi thọ mạng loài người lại giảm xuống còn sáu chục ngàn tuổi, khi ấy Bồ tát Vessabhū ã tái sanh vào cung trời Đâu-suất-à sau khi ã thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật. Chư thiên và Phạm thiên thỉnh cầu Ngài thành

Phật, Bồ tát nhận lời và xuống cõi nhân loại, thọ sanh vào lòng của bà Yasavatī, chánh hậu của vua Supattita ở kinh ô Anoma. Khi mười tháng trôi qua, Bồ tát ản sanh ở vườn Anupama.

Khi Bồ tát ản sanh, Ngài thốt lên thắng ngữ như: “Aggo’haṃ’asmi lokassa,” v.v... làm hoan hỷ mọi người. Vì thế vào ngày ặt tên của Ngài, các nhà tướng số thông thái và quyến thuộc của Ngài ặt tên cho Ngài là Vessabhū.

Đời sống ở vương cung  

Khi Bồ tát ến tuổi trưởng thành, Ngài sống trong ba cung iện Ruci, Suruci và Rativaddhana, ược hầu hạ bởi ba chục ngàn cung nữ dẫn ầu là công chúa Sucittā và hưởng cuộc ời ế vương trong sáu ngàn năm.

Sự xuất gia  

Khi Bồ tát ã trông thấy bốn iềm tướng và sau khi công chúa Sucittā hạ sanh một hoàng nam ặt tên là Suppabuddha, thì Bồ tát i xuất gia bằng chiếc kiệu vàng ến vườn thượng uyển. Ngài mặc vào bộ y do Phạm thiên dâng cúng và trở thành Sa-môn. Ba mươi bảy ngàn người cũng tự xuất gia theo gương của Bồ tát.

Sự thành ạo 

Cùng với ba mươi bảy ngàn vị Sa-môn ấy, Bồ tát thực hành pháp khổ hạnh trong sáu tháng. Vào ngày rằm tháng tư, ngày mà Ngài sẽ thành Phật, Bồ tát Vessabhū ộ món cơm sữa do Sirivaddhanā dâng cúng, một cư dân của thị trấn Sucitta và trải qua suốt ngày trong rừng cây sa-la của ịa phương. Đến chiều Ngài một mình i ến cây ại Bồ-ề Sāla. Trên ường i, Ngài nhận tám nắm cỏ do chúa rồng Narinda dâng tặng và khi Ngài vừa rải mớ cỏ xuống cội cây bồ-ề thì Vô ịch bảo tọa cao bốn mươi hắc tay xuất hiện.

Ngồi kiết già trên bảo toạ, Bồ tát vận dụng bốn mức ộ tinh tấn và chứng ắc Phật quả, theo cách chư Phật quá khứ.

             Ba Thắng thời thuyết pháp của Đức Phật Vessabhū                                      Dhammābhisamaya

Sau khi thành ạo, Đức Phật Vessabhū trú ngụ ở bảy chỗ quanh khu vực cây bồ-ề trong bốn mươi chín ngày. Nhận lời thỉnh cầu của Phạm thiên ể thuyết pháp, Đức Phật xem xét nên thuyết pháp ến ai trước và trông thấy hai người em khác mẹ, hoàng tử Sona và hoàng tử Uttara, là hai vị Thượng thủ Thinh văn tương lai có ầy ủ phước báu dẫn ến Đạo Quả giải thoát, Đức Phật vận dụng thần thông lập tức i xuyên qua hư không ến tại vườn Aruna, gần thành phố Anupama. Đức Phật bảo người giữ vườn i gọi hai vị hoàng tử. Giữa hội chúng gồm hai vị hoàng tử và tùy tùng, Đức Phật thuyết bài kinh Chuyển pháp luân như chư Phật quá khứ ã từng thuyết, chư thiên và Phạm thiên cũng ến cung kính thính pháp. Trong dịp ấy có tám trăm ngàn triệu chư thiên và nhân loại chứng ắc Đạo Quả giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ nhất)

Thời gian sau ó, khi Đức Phật Vessabhū du hành qua các thị trấn ể thuyết pháp ộ sanh, Ngài ã an trú cho bảy chục ngàn chư thiên và nhân loại trong Đạo Quả giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ hai)

Lại một dịp khác cũng tại thành phố Anupama, Đức Phật Vessabhū ã oạn diệt các tà kiến, rối ren như mắc lưới và rất tai hại. Bằng cách này, Ngài ã kéo xuống lá cờ vô minh của các ngoại ạo sư và giương lên ngọn cờ của chánh pháp. Giữa nhân loại, trong một không gian rộng chín do tuần và vô số chư thiên cùng Phạm thiên, Đức Phật Vessabhū ã thị hiện Song thông gồm nước và lửa khơi dậy niềm tịnh tín trong những người chứng kiến. Sáu trăm triệu chư thiên và nhân loại hân hoan hưởng ược ‘nước bất tử’ do Đức Phật ban phát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ ba)

Ba kỳ ại hội Thánh Tăng – Sannipāta  

Có ba kỳ Đại hội chư Thánh Tăng ệ tử của Đức Phật Vessabhū.  Kỳ ại hội thứ nhất diễn ra vào ngày rằm tháng Magha. Lúc bấy giờ, giữa hội chúng gồm tám trăm ngàn triệu vị A-la-hán mà trước kia ã xuất gia tỳ khưu trong hội chúng của hai vị trưởng lão Sona và Uttara (là hai vị Thượng thủ Thinh văn của Đức Phật). Đức Phật Vessabhū ã tụng Ovāda Pātimokkha.

 (Đây là Sannipāta lần thứ nhất)

Một dịp khác, tại thị trấn Soreyya, có một hội chúng gồm ba mươi bảy ngàn vị Sa-môn, họ là những người ã xuất gia Sa-môn theo gương của Bồ tát Vessabhū khi Ngài i xuất gia. Khi Bồ tát rời khỏi họ i nơi khác, họ vẫn tiếp tục i trong cõi ta-bà. Khi hay tin Đức Phật ã thuyết bài pháp Chuyển pháp luân, họ i ến Soreyya và ảnh lễ Đức Phật. Ngài thuyết pháp ến họ và truyền phép xuất gia khiến những vị sa-môn này trở thành những vị Thiện lai tỳ khưu. Giữa hội chúng có bốn ặc iểm, Đức Phật tụng Ovāda Pātimokkha.

(Đây là Sannipāta lần thứ hai)

Lại một dịp khác, Đức Phật Vessabhū viếng thăm kinh ô Narivahana ể ban phước cho nhà cai trị Upasanta. Nghe tin Đức Phật ến viếng kinh ô, vua Upasanta và tùy tùng lập tức ra ón chào Đức Phật và thỉnh Ngài vào hoàng cung, rồi thiết lễ trai Tăng cúng dường. Sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp, ức vua khởi tâm tịnh tín và xin Ngài truyền phép xuất gia. Nối gót ức vua, sáu chục ngàn tùy tùng cũng xuất gia. Cùng với ức vua Upasanta, tất cả họ ều chứng ắc ạo quả A-la-hán. Giữa hội chúng của những vị tỳ khưu này, Đức Phật tụng Ovāda Pātimōkkha.

 (Đây là Sannipāta lần thứ ba)

 Bồ tát Gotama của chúng ta sanh làm vua Sudassana và ược 

                         Đức Phật Vesabhū thọ ký 

Lúc bấy giờ Bồ tát của chúng ta là vua Sudassana có tướng mạo xinh ẹp, tuấn tú, ở tại kinh ô Sarabhavatī. Khi Đức Phật Vessabhū, Thế tôn của ba cõi, viếng thăm kinh ô, vị ấy nghe Đức Phật thuyết pháp và hoan hỷ ến nỗi chấp hai tay ưa lên trán. Đức vua cũng bố thí to lớn ến chúng Tăng có Đức Phật dẫn ầu lễ trai Tăng và cúng dường y phục. Tại chính kinh ô Sarabhavatī, ức vua ã cho xây dựng một hương phòng dành cho Đức Phật và một ngàn tịnh xá bao quanh dành cho chúng Tăng.

Vì Bồ tát rất hoan hỷ với giáo pháp cao siêu mà Đức Phật Vessabhū ã thuyết giảng nên vị ấy rất muốn xuất gia làm tỳ khưu. Do ó, vị ấy dâng hiến tất cả tài sản của cải của mình cho giáo pháp của Đức Phật, rồi xuất gia làm tỳ khưu, thực hành giáo pháp êm ngày không dễ duôi. Sau khi trở thành tỳ khưu, Bồ tát thực hành tất cả mười ba pháp ầu à và sống hạnh phúc trong giáo pháp của Đức Phật ể thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật.

Đầy hoan hỷ và tịnh tín, Bồ tát ảnh lễ Đức Phật Vessabhū. Ước nguyện thành ạt Nhất thiết trí khởi sanh trong vị ấy, Đức Phật Vessabhū biết rằng Bồ tát tỳ khưu có sự tinh tấn không suy giảm, bèn công bố lời tiên tri: “Sau ba mươi mốt ại kiếp kể từ nay, ến hiền kiếp Bhadda kappa (kiếp có 5 vị Phật), vị tỳ khưu Sudassana này sẽ thành một vị Phật, danh hiệu là Gotama.”

Sau khi nghe lời tiên tri của Đức Phật Vessabhū, Bồ tát rất hoan hỷ và nguyện thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật tinh tấn hơn.

Những chi tiết ặc biệt về Đức Phật Vessabhū 

Nơi sanh của Đức Phật Vessabhū là kinh ô Anoma; phụ vương là vua Suppatita và mẫu hậu là hoàng hậu Yasavatī.

Ngài trị vì vương quốc trong sáu ngàn năm. Ba cung iện là Ruci, Suruci và Rativaddhana.

Chánh hậu là Sucittā với ba chục ngàn cung nữ hầu hạ. Con trai là hoàng tử Suppabuddha.

Sau khi trông thấy bốn iềm tướng, Ngài i xuất gia trong chiếc kiệu vàng và hành pháp khổ hạnh trong sáu tháng.

Hai vị Thượng thủ Thinh văn là trưởng lão Sona và trưởng lão Uttara. Thị giả là trưởng lão Upasanta.

Hai ại ệ tử nữ là trưởng lão ni Rāmā và trưởng lão ni Samālā.  Cây Bồ-ề là cây Mahāsāla.

Hai vị cận sự nam bậc thánh là hai vị trưởng giả Sottika và Rambha. Hai cận sự nữ là Ưu-bà-di Gotamī và Ưu-bà-di Sirimā.

Đức Phật Vessabhū cao sáu mươi hắc tay, rực rỡ quang minh như cột trụ bằng vàng. Hào quang từ thân của Ngài toả sáng rực rỡ như khối lửa trên ỉnh ồi lúc ban êm.

Thọ mạng trong thời kỳ của Đức Phật Vessabhū là sáu chục ngàn tuổi; Ngài sống suốt bốn phần năm của thọ mạng ể cứu vớt chúng sanh gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên thoát khỏi những cơn lũ luân hồi và ặt họ trên miền ất Niết bàn.

Đức Phật Vessabhū hằng giảng giải cặn kẽ chánh pháp ến nhiều người theo úng căn cơ của họ. Sau khi hạ thủy chiếc thuyền chánh pháp vượt qua ại dương luân hồi ể em lại lợi ích cho nhiều thế hệ chúng sanh, Đức Phật Vessabhū cùng với chúng Thánh văn ệ tử Ala-hán của Ngài ã viên tịch ại Niết bàn.

Kinh cảm quán   

Đức Phật Vessabhū và chúng ệ tử La-hán của Ngài áng ược nhân loại, chư thiên và Phạm thiên tôn kính lễ bái, những ngôi nhà chánh pháp Ngài và các ệ tử A-la-hán, tất cả ều biến mất. Tất cả các pháp hữu vi quả thật vô dụng và không thực chất!

Bảo tháp 

Như vậy, Đức Phật Vessabhū, Bậc chiến thắng ngũ ma, bậc Thiên nhân sư, ã viên tịch ại Niết bàn ở vườn Khema, gần thành phố Usabhavati. Theo úng nguyện của Ngài, Xá lợi ã ược phân tán và i khắp mọi nơi trong cõi Diêm phù ề, ược tôn trí trong các bảo tháp và ược nhân loại, chư thiên và Phạm thiên ngày êm lễ bái cúng dường.

Kết thúc lịch sử Đức Phật Vesabhū - Vesabhū Buddhavaṃsa

]œ

 

                    22. Kakusandha Buddhavaṁva                     (Lịch sử Đức Phật Kakusandha) 

Đức Phật Vessabhū viên tịch ại Niết bàn, ại kiếp mà Ngài xuất hiện ã kết thúc. Trải qua hai mươi chín Không kiếp, là những ại kiếp không có chư Phật xuất hiện. Sau ó là ại kiếp của chúng ta, ược gọi là Hiền kiếp (bhadda kappa) vì trong ại kiếp này có năm vị

Phật xuất hiện - Kakusandha, Konāgamana, Kassapa và Gotama và Đức Phật cuối cùng sẽ xuất hiện trong ại kiếp này là Đức Phật Di-lặc (Metteyya).

Lịch sử của Đức Phật Kakusandha, vị ầu tiên trong năm ại kiếp này, diễn ra như sau: Hiền kiếp gồm có sáu mươi bốn trung kiếp (antara kappa). (Ở trung kiếp thứ tám theo bộ Mahā Rajavaṃsa hay ở trung kiếp thứ nhất theo bộ Hamannan Rajavaṃsa), khi thọ mạng của loài người giảm từ A-tăng-kỳ tuổi xuống còn bốn mươi ngàn tuổi thì Bồ tát Kakusandha - sau khi ã thực hành viên mãn các pháp Ba-lamật, tái sanh vào cõi trời Đâu-suất-à. Nhận lời thỉnh cầu của chư thiên và Phạm thiên ể thành Phật, Ngài xuống cõi nhân loại và thọ sanh vào lòng của nữ Bà-la-môn Visākha, vợ của vị quốc sư Aggidatta, là quan cố vấn của vua Khenaṅkara ở kinh ô. Sau mười tháng, Bồ tát ản sanh ở vườn Khemavati.

Ghi chú: Như ã trình bày ở trước, tất cả những vị Phật từ Đức Phật Dīpaṅkara ến Đức Phật Vessabhū ều xuất thân từ dòng vua chúa (Sát-ế-lỵ), nhưng Đức Phật Kakusandha thì xuất thân từ dòng Bà-la-môn.

Ngày xưa tại Ấn ộ, xã hội bao gồm bốn giai cấp: Sát ế lỵ (vua chúa), Bà-la-môn, giai cấp thương nhân và giai cấp hạ ẳng. Đối với một vị Phật trong kiếp chót, Ngài không bao giờ thọ sanh vào hai giai cấp sau.

Về giai cấp Sát ế lỵ và Bà-la-môn, ôi khi những vị Sát ế lỵ ứng ầu trong xã hội và ôi khi các vị Bà-la-môn chiếm ịa vị thượng ẳng. Trong thời kỳ mà dân chúng kính trọng các vị Sát-ế-lỵ hơn hết thì Bồ tát sanh ra trong giai cấp Sát-ế-lỵ, vì họ ược xem là những người cao quý nhất trong xã hội. Nhưng vào thời kỳ khác, khi dân chúng có sự tôn kính cao nhất ến các vị Bà-la-môn thì Bồ tát sanh ra trong dòng dõi Bà-la-môn, vì họ ược xem là những người cao quý nhất.

Như vậy, chư Phật chỉ xuất thân từ một trong hai giai cấp cao nhất trong xã hội, ó là Sát-ế-lỵ và Bà-la-môn. Vì giai cấp Sát ế lỵ thường ược công nhận là cao quý nhất, nên chư Phật thường xuất thân từ giai cấp này.Chỉ khi nào giai cấp Bà-la-môn chiếm ịa vị tối ưu trong xã hội, khi ấy chư Phật mới xuất thân từ giai cấp Bà-la-môn. Cho nên số lượng chư Phật xuất thân từ giai cấp Sát ế lỵ thì nhiều hơn, còn số chư Phật xuất thân từ giai cấp Bà-la-môn thì ít hơn.

Đời sống ở vương cung 

Khi Bồ tát Kakusandha ến tuổi trưởng thành, Ngài sống trong ba cung iện Kāma, Kāmavaṇṇa và Kāmasuddhi, ược hầu hạ và phục vụ bởi người vợ Bà-la-môn tên là Rucinī cùng với ba chục ngàn thiếu nữ bà-la-môn hầu hạ. Ngài sống cuộc ời thế tục như thần tiên trong bốn ngàn năm.

Sự xuất gia 

Khi trông thấy bốn iềm tướng và sau khi Rocinī hạ sanh một bé trai ặt tên là Uttara thì Bà-la-môn Kakusandha i xuất gia, ngồi trên chiếc xe song mã và trở thành vị Sa-môn. Noi theo gương của Ngài có bốn chục ngàn người cũng trở thành Sa-môn.

Sự thành ạo

Cùng với bốn mươi ngàn vị Sa-môn này, Bồ tát Kakusandha thực hành khổ hạnh trong tám tháng. Vào ngày rằm tháng tư, ngày mà Ngài sẽ thành Phật, Bồ tát ộ món cơm sữa do nữ Bà-la-môn Vajirindā dâng cúng, ở thị trấn Vajirinda, và trải qua suốt ngày trong rừng cây Keo của ịa phương. Đến chiều Ngài i một mình ến cây ại Bồ-ề và nhận tám nắm cỏ trên ường i từ một người giữ ruộng tên Subhadda. Khi Bồ tát vừa rải mớ cỏ xuống cây bồ-ề Sirisa thì Vô ịch bảo tọa cao hai sáu hắc tay xuất hiện. Ngồi kiết già trên bảo tọa, Ngài vận dụng bốn mức ộ tinh tấn và chứng ắc Phật quả theo cách chư Phật trong quá khứ.

      Ba Thắng thời thuyết pháp của Đức Phật Kakusandha

                                    (Dhammābhisamaya) 

Sau khi chứng ắc Phật quả, Đức Phật Kakusandha trú ngụ ở bảy chỗ quanh khu vực cây bồ-ề Sirisa trong bốn mươi chín ngày. Nhận lời thỉnh cầu thuyết pháp của Phạm thiên, Đức Phật xem xét nên thuyết pháp ến ai trước và trông thấy những vị Sa-môn ã từng xuất gia theo Ngài. Ngài xuất hiện ngay lập tức nơi trú ngụ của họ, khu rừng Nai Isipatana gần thị trấn Makita. Giữa hội chúng ấy có sự tham dự của chư thiên và Phạm thiên, Đức Phật thuyết bài kinh Chuyển pháp luân giống như chư Phật quá khứ. Lúc bấy giờ có bốn trăm ngàn triệu chư thiên và nhân loại chứng ắc Đạo Quả giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ nhất)

Một dịp khác về sau, Đức Phật Kakusandha thị hiện Song thông ở gần cây Sala, cạnh cổng thành Kannakajja và thuyết pháp. Ba trăm ngàn triệu chư thiên và nhân loại ã thông ạt Tứ Diệu Đế và giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ hai)

Lại một dịp khác, Thắng thời thuyết pháp diễn ra như sau: ở một miếu thần, không quá xa thị trấn Khemavatī có một vị Dạ-xoa tên là Naradeva sống ở ó. Vào mùa cúng tế miếu thần, dạ xoa hiện nguyên hình ể lãnh thọ lễ vật mà dân chúng em ến cúng kiến. Tuy nhiên, thói quen của dạ xoa là buộc những người i qua khu rừng ường sá trắc trở, phải i ến một cái hồ lớn ở giữa rừng ể nghỉ ngơi và kiếm các loại sen. Nếu không ai ến ó thì dạ xoa trở lại chỗ ngụ của mình trong rừng và bắt những người tình cờ i ngang qua và ăn thịt họ.

Thực ra, con ường xuyên qua khu rừng nổi tiếng là rất hiểm trở. Một dạo, dân cư ở cả hai bên khu rừng ã bàn bạc với nhau về cách thức ể i xuyên qua khu rừng hoang. Lúc bấy giờ, sau khi xuất khỏi ại ịnh vào lúc sáng sớm, Đức Phật Kakusandha dò xét thế gian và thấy rằng dạ xoa Naradeva và những dân cư ấy ã lọt vào võng trí của Ngài. Bởi vậy Ngài dùng thần thông i xuyên qua hư không và trong khi mọi người nhìn lên, Ngài thị hiện nhiều phép lạ rồi áp xuống trong cung iện của dạ xoa Naradeva và ngồi trên bảo tọa quý báu của dạ xoa.

Dạ xoa Naradeva lấy làm hoan hỷ khi trông thấy Đức Phật ang i ến bằng con ường hư không và phát ra hào quang sáu màu từ thân của Ngài, vì vị ấy tự nghĩ: “Đức Phật ến ây do lòng bi mẫn của Ngài ối với ta.” Cùng với các vị dạ xoa tùy tùng, vị ấy i ến Hy-mãlạp sơn và em về ủ loại hoa xinh ẹp và thơm ngát mọc lên từ dưới nước và trên ất, rồi dâng cúng ến Đức Phật. Sau khi ngâm lên bài kệ tán thán Đức Phật, dạ-xoa Naradeva ứng và chấp tay ưa lên trán với thái ộ ầy tôn kính.

Thấy những phép lạ của Đức Phật, tâm của mọi người trở nên tịnh tín và tất cả họ cùng kéo ến Đức Phật, ảnh lễ Ngài rồi ngồi xuống. Bằng sự giảng giải các thiện nghiệp cho quả lành như thế nào, Đức Phật Kakusandha ã khiến cho dạ xoa ưa thích các việc thiện và qua bài pháp nói về các cõi khổ, Ngài ã khiến cho dạ xoa khởi tâm ghê sợ. Sau ó Đức Phật thuyết giảng về Tứ Thánh ế. Lúc bấy giờ có vô số chư thiên và nhân loại thông ạt Tứ Diệu Đế và chứng Quả giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ ba)

Nhất kỳ ại hội Thánh Tăng – Sannipāta  

Chỉ có ộc nhất một kỳ Đại hội Thánh Tăng ệ tử Đức Phật Kakusandha. Đó là kỳ Đại hội của những vị A-la-hán mà trước kia ã từng theo Bồ tát Kakusandha xuất gia làm Sa-môn, diễn ra tại khu rừng nai Isipatana, gần thành phố Kaṇṇakujja vào ngày rằm tháng Magha, và giữa hội chúng tỳ khưu này Đức Phật Kakusandha ã tụng Ovāda Pātimokkha.

                   Bồ tát sanh làm vua Khema và ược 

                      Đức Phật Kakusandha thọ ký 

Lúc bấy giờ Bồ tát Gotama của chúng ta là vua Khema. Sau khi tổ chức bố thí to lớn gồm y và bát ến chúng Tăng có Đức Phật dẫn ầu, ồng thời cúng dường các loại dược chất như thuốc nhỏ mắt, v.v... Bồ tát rất hoan hỷ với thời pháp của Đức Phật ến nỗi vị ấy ã từ bỏ thế gian và xuất gia làm tỳ khưu trước sự chứng kiến của Đức Phật. Rồi Đức Phật công bố lời tiên tri: “Trong chính hiền kiếp Bhadda kappa này, vị tỳ khưu Khema này sẽ thành Phật, danh hiệu là Gotama.”

Sau khi nghe lời tiên tri của Đức Phật, Bồ tát Khema rất hoan hỷ và nguyện thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật tinh tấn hơn.

Những chi tiết ặc biệt về Đức Phật Kakusandha 

Nơi sanh của Đức Phật Kakusandha là kinh ô Khemavatī. Cha là bà-la-môn Aggidatta, quốc sư của vua Khemakara và mẹ là nữ Bà-lamôn Visakha.

Ngài sống cuộc ời thế tục trong bốn ngàn năm. Ba cung iện của Ngài là Kāma, Kāmavaṇṇa và Kāmasuddhi.

Vợ là thiếu nữ Bà-la-môn Rocinī với ba chục ngàn nữ hầu. Con trai tên Uttara.

Ngài i xuất gia bằng xe ngựa kéo và thực hành khổ hạnh trong tám tháng.

Hai vị Thượng thủ Thinh văn là trưởng lão Vidhura và trưởng lão Sanjīvä. Thị giả là trưởng lão Buddhija.

Hai ại ệ tử nữ là trưởng lão ni Sāmā và trưởng lão ni Campā. Cây bồ-ề là cây Sirisa.

Hai cận sự nam bậc Thánh là hai vị trưởng giả Accuta và Sumana. Hai cận sự nữ của Ngài là Ưu-bà-di Nandā và Ưu-bà-di Sunandā.

Đức Phật Kakusandha cao bốn mươi hắc tay. Hào quang từ thân của Ngài tỏa sáng khắp quanh, xa mười do tuần.

Thọ mạng của loài người trong thời kỳ của Ngài là bốn chục ngàn tuổi, Ngài sống suốt bốn phần năm của thọ mạng cứu vớt cho vô số chúng sanh gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên ra khỏi ại dương của luân hồi và ặt họ trên miền ất của Niết bàn.

Trong thế gian gồm nhân loại và chư thiên, Đức Phật Kakusandha ã mở ra cánh cửa i vào lâu ài của chánh pháp dành cho những người có giới ức, nam cũng như nữ và hùng dũng rống tiếng rống của con sư tử: “Ta ích thực là Đức Phật Chánh ẳng giác.” Tất cả phiền não và lậu hoặc ã ược oạn tận trong ta. Sau ó, cùng với chúng Thinh văn ệ tử của Ngài, Đức Phật Kakusandha ã viên tịch ại Niết bàn.

Kinh cảm quán  

Đức Phật Kakusandha, bậc có giọng nói mang tám ặc tánh như rõ ràng, hiền dịu, trong trẻo, khả ái, vững vàng, ấm áp và vang dội. Hai vị Thượng thủ thinh văn ệ tử của Ngài cùng với những vị Thinh văn ệ tử khác, những bậc luôn luôn có giới trong sạch - tất cả ều biến mất. Các pháp hữu vi quả thật vô dụng và không thực chất!

Bảo tháp 

Như vậy Đức Phật Kakusandha ã viên tịch tại vườn Khema. Cũng chính tại khu vườn ấy một bảo tháp cao một do tuần ược xây dựng ể tôn thờ Xá lợi của Ngài.

Kết thúc lịch sử Đức Phật Kakusandha 

Kakusandha Buddhavaṃsa

]œ

 

                      23. Koṇāgamana Buddhavaṁsa                        (Lịch sử Đức Phật Koṇāgamana) 

 

Sau khi Đức Phật Kakusandha viên tịch, trong hiền kiếp này, thọ mạng của loài người giảm dần từ bốn chục ngàn tuổi còn mười tuổi, rồi lại tăng lên ến A-tăng-kỳ tuổi. Sau khi thọ mạng của loài người lại giảm còn ba chục ngàn tuổi thì Bồ tát Koṇāgamana, sau khi thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật ã tái sanh vào cõi trời Đâu-suất-

à. Nhận lời thỉnh cầu của chư thiên và Phạm thiên ể thành Phật, Ngài xuống cõi nhân loại và thọ sanh vào lòng của nữ bà-la-môn Uttarā, vợ của Bà-la-môn Yaññadatta, ở kinh ô Sobhavati. Khi mười tháng trôi qua, Bồ tát ản sanh ở vườn Subhavatī.

Vào lúc Bồ tát ản sanh có một ám mưa vàng rơi xuống khắp cõi Diêm phù ể và nhân biến cố “vàng rơi xuống từ trên trời”, các nhà tướng số thông thái và quyến thuộc của Ngài ặt tên cho Ngài là Kanakagamana (kanaka nghĩa là “vàng”, āgamana nghĩa là ‘ ến’). Do ó, Kanakagamana nghĩa là “cậu bé em vàng ến”. Do tánh chất xưa cổ, tên Kanakagamana ược ọc trại thành Koṇāgamana. Hoặc do cách biến ổi ngữ căn, vần ka ầu tiên ược ổi thành ko, na thành ṇa và vần ka cuối cùng bị lượt bỏ.

Đời sống ở vương cung 

Khi Bồ tát Koṇāgamana ến tuổi trưởng thành, Ngài sống trong ba cung iện Tusita, Santusita và Santuṭṭha, ược hầu hạ bởi người vợ là thiếu nữ Bà-la-môn Rucigattā với tùy tùng gồm mười sáu ngàn thiếu nữ Bà-la-môn. Ngài hưởng cuộc sống thần tiên trong ba ngàn năm.

Sự xuất gia 

Khi Bà-la-môn Koṇāgamana trông thấy bốn iềm tướng khi ang sống cuộc ời thế tục và sau khi người vợ Rucigattā ã hạ sanh một bé trai ặt tên là Satthavāha, thì Ngài từ bỏ thế gian, i xuất gia cỡi trên con voi. Ba chục ngàn người noi theo gương Ngài cũng xuất gia làm sa-môn.

Sự thành ạo 

Cùng với ba chục ngàn vị Sa-môn này, Bồ tát Koṇāgamana thực hành pháp khổ hạnh trong sáu tháng. Vào ngày rằm tháng tư, ngày mà Ngài sẽ thành Phật, Bồ tát ộ món cơm sữa do Aggisonā dâng cúng, con gái của một người dân tên Aggisona và trải qua suốt ngày trong rừng cây keo của ịa phương. Đến chiều, Ngài một mình i ến cây ại bồ-ề và nhận tám nắm cỏ trên ường i từ một người giữ ruộng lúa tên Jāṭatinduka. Khi Bồ tát Koṇāgamana vừa rải mớ cỏ xuống cội cây bồ ề Udumbara thì Vô ịch bảo tọa cao hai mươi hắc tay xuất hiện. Ngồi kiết già trên bảo tọa, Ngài vận dụng bốn mức ộ tinh tấn và chứng ắc Phật quả theo cách như chư Phật trong quá khứ.

  Ba Thắng thời thuyết pháp của Đức Phật Koṇāgamana  (Dhammābhisamaya)  

Sau khi thành ạo, Đức Phật Koṇāgamana trú ngụ ở bảy chỗ quanh khu vực cây bồ-ề trong bốn mươi chín ngày. Nhận lời thỉnh cầu thuyết pháp của ại Phạm thiên, Ngài xem xét nên thuyết pháp ến ai trước, và trông thấy ba chục ngàn vị Sa-môn, là những người ồng tu với Ngài. Ngay lập tức, Đức Phật Koṇāgamana vận dụng thần thông xuất hiện nơi ngụ của họ ở khu vườn Nai Isipatana, gần thành phố Sudassana. Giữa hội chúng các vị Sa-môn ấy, Đức Phật Koṇāgamana thuyết giảng bài kinh Chuyển pháp luân như chư Phật quá khứ ã từng thuyết. Cuối bài thuyết pháp có ba trăm ngàn triệu chư thiên và nhân loại chứng ắc Đạo Quả giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ nhất)

Một dịp khác về sau khi Đức Phật Koṇāgamana thị hiện Song thông gồm nước và lửa gần cây Sala, cạnh cổng thành Sundara, Ngài oạn diệt các tà kiến và thuyết pháp. Hai trăm ngàn triệu chư thiên và nhân loại ã chứng ắc Đạo Quả giải thoát lúc bấy giờ.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ hai)

Sau khi thị hiện Song thông, Đức Phật Koṇāgamana i lên cõi trời Đạo lợi thiên, ngồi trên tảng á dưới cội cây Pāricchattaka và thuyết tạng A-tỳ-àm ến chư thiên và Phạm thiên ã cu hội ở ó từ khắp mười ngàn thế giới. Lúc bấy giờ có một trăm ngàn triệu vị thiên chứng ắc Đạo Quả giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ ba)

Nhất kỳ ại hội Thánh Tăng – Sannipāta 

Chỉ có một kỳ Đại hội những vị Thánh Tăng ệ tử của Đức Phật Koṇāgamana. Khi Đức Phật ang ngụ ở vườn Surindadeva, gần thành phố Sundaravati, Ngài dạy pháp ến hai vị hoàng tử Bhiyyosa và Uttara, là những vị Thượng thủ Thinh văn tương lai cùng với ba chục ngàn tùy tùng và khi Ngài gọi “Hãy ến, này các tỳ khưu,” thì tất cả họ ều trở thành Thiện lai tỳ khưu và chứng ắc ạo quả A-la-hán.

Vào ngày rằm tháng Magha, giữa hội chúng ba mươi ngàn vị La-hán ấy, Đức Phật tụng Ovāda Pātimokkha.

         Tiền thân Đức Phật Gotama là vua Pabbata và ược 

                         Đức Phật Koṇāgamana thọ ký 

Lúc bấy giờ Bồ tát Gotama của chúng ta là vua Pabbata ở kinh ô Mithila. Nhà vua là một nhà cai trị hùng mạnh có sự thân giao với các lân bang cường thịnh. Nghe tin Đức Phật Koṇāgamana ến ở kinh ô Mithila, vua Pabbata bèn dẫn tùy tùng ra ón tiếp Đức Phật, cung thỉnh Ngài và tổ chức lễ bố thí to lớn. Nhà vua cũng thỉnh Đức Phật nhập hạ ở kinh ô của mình và phục vụ Đức Phật cùng chúng Tăng suốt ba tháng mùa an cư. Ngoài ra, ức vua cũng dâng cúng ến chư Tăng có Đức Phật dẫn ầu các loại vải như vải cotton, lụa , len, những ôi dép bằng vàng và nhiều vật dụng khác ược làm ở xứ Pattunna và xứ Cina. Rồi Đức Phật công bố lời tiên tri về vị ấy: “Trong chính hiền kiếp này, vị vua Pabbata này nhất ịnh sẽ thành Phật, danh hiệu Gotama.”

Sau khi nghe lời tiên tri của Đức Phật, Bồ tát Pabbata rất hoan hỷ và nguyện thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật tinh tấn hơn.

Vì ức vua Pabbata là người có chí nguyện cầu Nhất thiết trí, nên vị ấy ã cúng dường rất lớn ến Đức Phật Koṇāgamana, từ bỏ ngôi vị ế vương và trở thành vị tỳ khưu trước sự chứng minh của Đức Phật.

Những chi tiết ặc biệt về Đức Phật Koṇāgamana  

Nơi sanh của Đức Phật Koṇāgamana là kinh ô Sobhavatī do vua Sobha trị vì. Cha của Ngài là Bà-la-môn Yaññadatta và mẹ là nữ bàla-môn Uttarā.

Ngài sống cuộc ời thế tục trong ba ngàn năm. Ba cung iện của Ngài là Tusita, Santusita và Santuṭṭha.

Vợ là thiếu nữ Bà-la-môn Rucigattā với mười ngàn nữ bà-la-môn hầu hạ. Con trai là Satthavāha.

Ngài i xuất gia bằng voi sau khi trông thấy bốn iềm tướng và thực hành khổ hạnh trong sáu tháng.

Hai vị Thượng thủ Thinh văn Koṇāgamana là trưởng lão Bhiyyosa và trưởng lão Uttara. Thị giả là trưởng lão Sotthiya.

Hai ại ệ tử nữ là trưởng lão ni Samuddā và trưởng lão ni Uttarā. Cây bồ-ề là cây Udumbara.

Hai cận sự nam bậc thánh là hai vị trưởng giả Ugga và Somadeva. Hai cận sự nữ bậc thánh là Ưu-bà-di Sivalā và Ưu-bà-di Sāmā.

Đức Phật Koṇāgamana cao ba mươi hắc tay. Thân của Ngài ược tô iểm bởi ánh hào quang như màu vàng ròng nguyên chất của thợ kim hoàn.

Thọ mạng trong thời kỳ của Đức Phật Koṇāgamana là ba chục ngàn năm. Suốt bốn phần năm của thọ mạng, Đức Phật Koṇāgamana ã cứu vớt cho vô số chúng sanh gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên ra khỏi ại dương luân hồi và ặt họ trên miền ất Niết bàn.

Để chúng sanh có thể trú ngụ và nương tựa trong lâu ài của trí tuệ (Vipassanā Ñāṇa Paññā), Đức Phật Koṇāgamana ã kiến tạo ngôi nhà chánh pháp gồm Ba mươi bảy pháp trợ bồ-ề (Bodhipakkhiya dhamma) , ược tô iểm bởi ngọn cờ Tứ Thánh ế, và cũng tạo ra “vườn hoa chánh pháp”, sau ó Ngài cùng chúng Thinh văn ệ tử viên tịch ại Niết bàn.

Kinh cảm quán 

Chư Thinh văn ệ tử của Đức Phật Koṇāgamana, những bậc có ại thần thông lực, và Đức Phật Koṇāgamana, Bậc thuyết giảng chánh pháp siêu thế gian - tất cả các Ngài ều biến mất. Tất cả các pháp hữu vi quả thật vô dụng và không thực chất!

Bảo tháp 

Đức Phật Koṇāgamana, Bậc ã thông ạt Tứ Diệu Đế và những pháp khác cần ược thông ạt, ã viên tịch ại Niết bàn ở vườn Pabbata. Xá lợi của Đức Phật ã phân tán theo úng ý nguyện của Ngài, thấu ến khắp mọi nơi trong cõi Diêm phù ề và ược nhân loại, chư thiên và Phạm thiên ngày êm lễ bái, cúng dường.

                     Kết thúc lịch sử Đức Phật Koṇāgamana                            Koṇāgamana Buddhavaṃsa

]œ

 

                         24. Kassapa Buddhavaṁsa                           (Lịch sử Đức Phật Kassapa) 

Sau khi Đức Phật Koṇāgamana viên tịch trong chính Hiền kiếp này, thọ mạng của loài người giảm dần từ ba chục ngàn tuổi còn mười tuổi,  rồi lại tăng lên ến A-tăng-kỳ tuổi. Khi giảm lại còn hai chục ngàn tuổi thì Bồ tát Kassapa tái sanh ở cung trời Đâu-suất-à. Nhận lời thỉnh cầu của chư thiên và Phạm thiên ể thành Phật, Ngài xuống cõi nhân loại và thọ sanh vào lòng của nữ Bà-la-môn Dhanavatī, vợ của bà-la-môn Brahmadatta ở kinh ô Barānasī, do vua Kikī trị vì. Mười tháng trôi qua, Bồ tát ản sanh ở vườn nai Isipatana.

Vào ngày ặt tên của Ngài, các nhà tướng số thông thái và quyến thuộc của Ngài ặt tên cho Ngài là Kassapa vì Ngài thuộc dòng họ mang tên ấy.

 Đời sống ở vương cung 

Khi Bồ tát Kassapa ến tuổi trưởng thành, Ngài sống trong ba cung iện: Haṁsa, Yasa và Sirinanda, ược hầu hạ bởi người vợ của Ngài là thiếu nữ Bà-la-môn Sunandā, cùng với bốn mươi tám ngàn người hầu nữ. Ngài hưởng cuộc ời thế tục như thần tiên trong hai ngàn năm.

Sự xuất gia

Bồ tát Kassapa trông thấy bốn iềm tướng khi ang sống cuộc ời thế tục và người vợ Sunandā của Ngài ã hạ sanh một bé trai ặt tên là Vijitasena, Ngài khởi sanh sự ộng tâm (saṁvega) và nghĩ: “Ta sẽ từ bỏ thế gian ngay ngày hôm nay.”

Vừa quyết ịnh như vậy thì cung iện của Bồ tát tự quay tròn như bánh xe của người thợ gốm và bay bổng lên không trung. Giống như mặt trăng xuất hiện giữa các vì sao trong mùa thu và tỏa sáng lung linh, cung iện em theo hàng trăm người bay trên không trung như tô iểm cho bầu trời thêm rực rỡ. Cuối cùng nó áp xuống mặt ất nơi cây bồ-ề Nigrodha (cây a) ở chính giữa.

Rồi Bồ tát bước xuống cung iện, Ngài mặc vào bộ y sa-môn do Phạm thiên dâng cúng. Vợ của Bồ tát và các nữ hầu cũng rời khỏi cung iện và i một khoảng xa bốn chục usabha (bằng nửa gāvuta). Nơi ây, họ dựng lên những cái trại tạm thời giống như doanh trại của một oàn binh. Theo gương Bồ tát, những người i theo Ngài cũng xuất gia làm Sa-môn.

Sự thành ạo

Cùng với những vị Sa-môn ã i theo Ngài, Bồ tát Kassapa thực hành pháp khổ hạnh. Vào ngày rằm tháng tư, ngày thành ạo của Ngài, Ngài ộ món cơm sữa do người vợ Snandā của Ngài dâng cúng và trải qua suốt ngày trong rừng cây keo của ịa phương. Đến chiều Ngài một mình i ến cây ại thọ Bồ-ề và trên ường i nhận tám nắm cỏ do một người giữ ruộng lúa tên Soma dâng cúng. Khi Ngài vừa rải mở cỏ xuống cội cây Bồ-ề thì Vô ịch bảo tọa cao mười lăm hắc tay xuất hiện. Ngồi kiết già trên bảo tọa, Ngài vận dụng bốn mức ộ tinh tấn và chứng ắc Phật quả.

Năm Thắng thời thuyết pháp của Đức Phật Kassapa (Dhammābhisamaya)  

Sau khi chứng ắc Phật quả, Đức Phật Kassapa trú ngụ ở bảy chỗ quanh khu vực cây Bồ-ề trong bốn mươi chín ngày. Nhận lời thỉnh cầu thuyết pháp của Phạm thiên, Ngài xem xét nên thuyết pháp ến ai trước và trông thấy mười triệu vị Sa-môn, là những người ồng tu trước kia với Ngài, họ có ầy ủ phước quá khứ có thể chứng ắc Đạo Quả. Đức Phật vận dụng thần thông, ngay lập tức xuất hiện nơi ngụ của họ tại rừng Nai Isipatana gần thành phố Barānasī. Giữa những vị sa-môn này, Đức Phật thuyết bài kinh Chuyển pháp luân giống như chư Phật quá khứ ã từng thuyết, nhiều chư thiên và Phạm thiên cũng ến ó ể thính pháp. Lúc bấy giờ có hai mươi triệu chư thiên và nhân loại chứng ắc Đạo Quả giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ nhất)

Về sau, khi Đức Phật Kassapa du hành về các thị trấn và làng mạc ể thuyết pháp ộ sanh, có một trăm ngàn triệu chư thiên và nhân loại chứng ắc Đạo Quả giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ hai)

Lại một dịp khác, khi Đức Phật Kassapa thị hiện Song thông gồm nước và lửa, và thuyết pháp gần cây Asana, cạnh cổng thành Sundara. Cuối thời pháp, có năm chục ngàn triệu chư thiên và nhân loại thông ạt Tứ diệu ế và chứng ắc Đạo Quả giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ ba)

Sau khi thị hiện Song thông, Đức Phật Kassapa lên cõi trời Bamươi-ba (Tāvatiṃsa) và tại giảng ường Chánh pháp (Sudhamma), Ngài thuyết bảy bộ Vi-diệu-Tạng (Abhidhammā) em lại lợi ích cho chư thiên và Phạm thiên ã cu hội ở ó ể thính pháp; ặc biệt ể tế ộ cho vị thiên trước kia là Mẹ của Ngài. Lúc bấy giờ có ba trăm ngàn triệu chư thiên và nhân loại thông ạt Tứ Diệu Đế và chứng ắc Đạo Quả giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ tư)

Một dịp nọ, có một dạ-xoa có quyền lực giống như dạ-xoa Naradeva trong thời của Đức Phật Kakusandha. Dạ-xoa này cũng có tên là Naradeva. Sau khi giả làm vị vua trị vì ở một kinh ô bên ngoài xứ Diêm phù ề và cũng giả giọng nói, cử chỉ và những ặc iểm khác của vua, dạ-xoa giết chết vị vua thật và ăn thịt vị ấy. Sau ó dạ xoa nắm quyền cai trị toàn vương quốc và giết chết rất nhiều người ể ăn thịt. Hắn sống tà hạnh với các nữ nhân trong hậu cung.

Khi các hoàng hậu, công nương và các cung nữ thông minh nhận ra rằng: “Người này không phải là chủ của chúng ta, không là ức vua của chúng ta. Hắn ích thực là dạ xoa.” Biết rằng mình ã bị phát hiện, dạ xoa bèn giết và ăn thịt tất cả họ, rồi tiếp tục i ến kinh ô khác và cũng giả làm vua tương tự như vậy.

Sau khi giết và ăn thịt nhiều người theo cách này, dạ xoa Naradeva ến tại kinh ô Sundara. Dân cư ở ó khi hay tin về sự cai trị ầy hãi hùng của hắn, vì sợ chết họ ã bỏ chạy khỏi kinh ô. Trông thấy cảnh trạng hỗn loạn và hoang mang của dân chúng, Đức Phật Kassapa bèn i ến và ứng trước mặt dạ xoa. Khi dạ xoa trông thấy Đức Phật ang ứng ngay trước mặt mình, hắn tấn công Đức Phật bằng cách phát ra âm thanh như sấm sét. Nhưng không thể làm cho Đức Phật sợ hãi, dạ xoa cúi ầu quy y Ngài. Trước ó hắn cũng thách thức Đức Phật bằng cách ặt ra những câu hỏi hóc búa và Ngài ã trả lời một cách thỏa áng. Khi Đức Phật ban lời giáo giới và thuyết pháp ến dạ xoa Naradeva thì vô số chư thiên và nhân loại ến thính pháp và kết quả là họ thông ạt Tứ diệu ế và chứng ngộ Giải thoát.

(Đây là Dhammābhisamaya lần thứ năm)

Nhất kỳ ại hội Thánh Tăng – Sannipāta 

Đại hội Thánh Tăng ệ tử của Đức Phật Kassapa diễn ra như vầy: Tại thành phố Bārāṇasī, khi Tissa- con trai của vị quốc sư, trông thấy ba mươi hai bảo tướng trên người của Bồ tát Kassapa, chàng trai nhớ lại lời dạy của cha rằng “Chỉ những người sẽ thành Phật mới có những hảo tướng như vậy.” Chàng trai Tissa hoàn toàn tin vào iều ấy và tự nghĩ rằng: “Vị Kassapa này sẽ thành Phật qua sự từ bỏ vĩ ại. Ta sẽ cố gắng ể thoát khỏi au khổ của luân hồi sau khi trở thành vị sa-môn trước sự chứng minh của Đức Phật Kassapa.” Do ó, vị ấy i ến Hymã-lạp-sơn và xuất gia làm ạo sĩ ngay trước khi Bồ tát Kassapa từ bỏ thế gian. Các ạo sĩ trong hội chúng của vị ấy lên ến hai mươi ngàn người.

Về sau, khi nghe tin “Đức Phật Kassapa, sau khi từ bỏ thế gian, bây giờ ã thành Phật rồi,” vị ấy cùng các ạo sĩ ồng tu rời khỏi Hy-mãlạp-sơn và tìm ến Đức Phật Kassapa, xin ược xuất gia trong giáo pháp của Đức Phật. Đức Phật Kassapa bèn gọi: “Hãy ến, này các tỳ khưu.” Và ạo sĩ Tissa cùng với hai mươi ngàn ạo sĩ ồng tu của vị ấy ều trở thành ‘Thiện lai tỳ khưu” và chứng ắc ạo quả A-la-hán.

Vào ngày rằm tháng Magha, giữa hội chúng hai chục ngàn vị tỳ khưu này, Đức Phật Kassapa tụng Ovāda Pātimokkha.

(Đây là Sannipāta ộc nhất)

Tiền thân của Đức Phật Gotama là chàng trai Jotipāla và ược

Đức Phật Kassapa thọ ký 

Lúc bấy giờ Đức Phật ương lai Gotama của chúng ta là chàng trai Jotipāla nổi tiếng. Vị ấy tụng các bộ kinh Phệ à một cách lưu loát, thuộc lòng tất cả những bài thánh ca, ạt ến sự toàn thông về các bộ Phệ à và thành tựu về khoa tướng pháp, như giải thích các hảo tướng của bậc ại trượng phu, v.v... khoa truyện cổ và tất cả các nghệ thuật, các nghề thủ công mà ã ược truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác. Bồ tát còn làu thông cả về khoa thiên văn và ịa lý.

Jotipāla là bạn thân của chàng thợ gốm Ghatikāra, một cận sự nam bậc thánh của Đức Phật Kassapa, rất tận tụy với Tam bảo và nổi tiếng là bậc A-na-hàm. Ghatikāra dẫn Bồ tát Jotipāla ến yết kiến Đức Phật.

Sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp, Jotipāla trở thành vị tỳ khưu trước sự chứng minh của Đức Phật. Đầy tinh tấn và thiện xảo trong các phận sự lớn nhỏ, không hề xao lãng ối với ba pháp tu Giới, Định và Tuệ, vị ấy có trách nhiệm hoằng dương chánh pháp. 

Sau khi thông thuộc chín phần giáo pháp, Bồ tát tỳ khưu Jotipāla ã làm vinh quang giáo pháp của Đức Phật. Biết những ức tánh phi thường của Jotipāla, Đức Phật Kassapa bèn tiên tri về vị ấy: “Vị tỳ khưu Jotipāla này nhất ịnh sẽ thành Phật, danh hiệu là Gotama ngay trong hiền kiếp này.”

Sau khi nghe lời tiên tri của Đức Phật, vị tỳ khưu cao quý Jotipāla vô cùng hoan hỷ và nguyện thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật tinh tấn hơn.

Vì ước nguyện duy nhất của Ngài là chứng ắc Nhất thiết trí nên Bồ tát của chúng ta, bậc sẽ thành Thế Tôn của ba cõi, tránh xa tất cả các ác nghiệp cần phải xa lánh trong suốt chuỗi dài luân hồi và tinh tấn không thối chuyển trong việc thực hành các thiện nghiệp - mà người bình thường hầu như không thể thực hành ược - ể thành tựu viên mãn các pháp Ba-la-mật.

Chú thích: Theo sự trình bày ở trên, xem ra người thợ gốm Ghatikāra ưa người bạn Jotipāla ến yết kiến Đức Phật mà không gặp khó khăn. Trên thực tế, vị ấy ã không dễ dàng thành công như vậy. Vị ấy ã thuyết phục Jotipāla ến nhiều lần và cuối cùng phải dùng ến áp lực, nắm tóc của Jotipāla mà kéo i. Chi tiết này ược nêu ra trong bài kinh Ghatikāra, Raja Vagga, Majjhima Paṇṇāsa.

Những chi tiết ặc biệt về Đức Phật Kassapa 

Nơi sanh của Đức Phật Kassapa là kinh ô Baranasī do vua Kikī trị vì. Cha là Bà-la-môn Brahmadatta và mẹ là nữ Bà-la-môn Dhanavatī.

Ngài sống cuộc ời thế tục trong hai ngàn năm. Ba cung iện là Haṁsa, Yasa và Sirinanda.

Vợ là thiếu nữ Bà-la-môn Sunandā với bốn mươi tám ngàn thiếu nữ bà-la-môn hầu hạ. Con trai là Vijitasena.

Phương tiện ưa Ngài i xuất gia là cung iện. Ngài thực hành khổ hạnh trong bảy ngày.

Hai vị Thượng thủ Thinh văn là trưởng lão Tissa và trưởng lão Bharadvāja. Thị giả là trưởng lão Sabbamitta.

Hai ại ệ tử nữ là trưởng lão ni Anulā và trưởng lão ni Uruvelā.

Cây Bồ-ề là cây Nigrodha. 

Hai cận sự nam bậc thánh là Sumaṅgala và thợ gốm Ghatikāra. Hai cận sự nữ là Ưu-bà di Vijitasenā và Ưu-bà-di  Bhaddā.

Đức Phật Kassapa cao hai mươi hắc tay. Ngài rực rỡ như khối lửa lớn, như trăng rằm ược vây quanh bởi các vì tinh tú.

Thọ mạng của loài người trong thời kỳ của Đức Phật Kassapa là hai chục ngàn năm. Suốt bốn phần năm của thọ mạng, Đức Phật Kassapa ã cứu vớt cho vô số chúng sanh gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên thoát khỏi ại dương luân hồi và ặt họ trên miền ất Niết bàn.

Đức Phật Kassapa tạo ra  “hồ chánh pháp” vĩ ại dành cho nhân loại, chư thiên và Phạm thiên, cho họ xức dầu “Tứ thanh tịnh giới” ể trang iểm cho cái tâm của họ, khiến họ mặc vào bộ y phục Tàm-quý, phân phát ến họ những bông hoa của Ba mươi bảy pháp trợ bồ-ề (Bodhipakkhiya dhamma), ặt chiếc gương trong suốt của Nhập lưu ạo tuệ (Sotāpatti magga ñāna) ể họ có thể thấy rõ chính mình, phân biệt ược những pháp bất thiện và những pháp thiện, giữa thiện nghiệp và ác nghiệp. Ngài ặt chiếc gương tựa như mời gọi những người ang lang thang tầm cầu Niết bàn i ến “hồ chánh pháp”.

Đối với những người lắng nghe lời giáo huấn của Đức Phật, Ngài cho họ những chiếc áo giáp Ngũ giới, Thập giới và Tứ thanh tịnh giới ể họ có thể chống lại kẻ thù phiền não; giúp họ mặc vào chiếc áo khoác Tứ thiền hợp thế và Ngũ thiền siêu thế. Cung cấp cho họ vũ khí tinh tấn cực mạnh gồm bốn mức ộ và cho họ tấm khiên Tứ niệm xứ ể họ có thể phòng thân chống lại các kẻ thù phiền não. Ngài còn cho các ệ tử những chiếc lao Minh sát tuệ rất bén nhọn và những cây gươm ạo tuệ ược mài bén bằng viên á mài tinh tấn. Ngài còn cho họ các Giới siêu thế ể họ có thể oạn diệt các phiền não ngũ ngầm. Rồi Đức Phật cho họ nhiều vật trang sức như Tam minh và Lục thông ể họ gắn vào những bộ y phục Thánh quả ở trên người. Đức Phật còn tạo ra bó hoa chín Thánh pháp, thêm vào chiếc lọng A-la-hán quả ể họ có thể bảo vệ chính mình ngăn chặn sức nóng của các tội lỗi. Đức Phật Kassapa cũng tạo ra bông hoa Bát Thánh ạo to lớn dẫn ến hạnh phúc của Niết bàn. Rồi Đức Phật Kassapa và chúng Thinh văn ệ tử A-la-hán của Ngài viên tịch ại Niết bàn và chấm dứt kiếp sống cuối cùng.

Kinh cảm quán 

Đức Phật Kassapa, Bậc có vô số ân ức. Pháp bảo ược Đức Phật thuyết giảng là pháp hằng mời gọi những người có trí bằng những lời: “Hãy ến ây, hãy nhìn vào và cố gắng thực hành theo.” Tăng bảo, chúng Thanh văn ệ tử gồm những bậc Tối thắng, các Ngài ã khéo thực hành Pháp bảo. Tất cả ều ã biến mất. Tất cả các pháp hữu vi quả thật vô dụng và không thực chất!

Bảo tháp 

Như vậy Đức Phật Kassapa, Bậc chiến thắng ngũ ma, Bậc ạo sư của chư thiên và nhân loại, ã viên tịch ại Niết bàn tại ại lâm viên Setavya, gần thành phố Setavya, trong nước Kāsi. Dân chúng khắp cõi Diêm phù ề ồng tâm xây dựng một bảo tháp, trong ó mỗi viên gạch lát ở bên ngoài trị giá mười triệu ồng tiền vàng, mỗi viên gạch lát ở bên trong trị giá năm triệu - bảo tháp ược xây dựng ể tôn thờ Xá lợi của Đức Phật Kassapa cao một do tuần.

                        Kết thúc lịch sử Đức Phật Kassapa                                   Kassapa Buddhavaṃsa

]œ

PHỤ LỤC

       TÓM TẮT VỀ CÁC KIẾP SỐNG QUÁ KHỨ CỦA 

                              ĐỨC PHẬT GOTAMA

Theo bộ Chú giải Buddhavaṁsa ã kể lại ở trên, tiền thân của Đức Phật Gotama của chúng ta ược thọ ký từ hai mươi bốn vị Phật, lần lượt từ Đức Phật Nhiên Đăng (Dīpaṅkarā) ến Đức Phật Ca-diếp (Kassapa). Những kiếp sống quá khứ của Ngài mà trong ó lời tiên tri thành Phật ược công bố có thể ược sắp xếp như sau:

Năm kiếp làm ạo sĩ 

  1. Kiếp làm ạo sĩ Sumedha và ược Đức Phật Dīpaṅkarā thọ ký.
  2. Kiếp làm ạo sĩ Jatila và ược Đức Phật Nārada thọ ký.
  3. Kiếp làm ạo sĩ Susima và ược Đức Phật Atthadassī thọ ký. (d) Kiếp làm ạo sĩ Maṅgala và ược Đức Phật Siddhattha thọ ký,  (e) Kiếp làm ạo sĩ Sujāta và ược Đức Phật Tissa thọ ký.

Như vậy, Ngài làm thọ ký trong 5 kiếp làm ạo sĩ. 

Kiếp làm Tỳ khưu 

Sự thọ ký cũng xảy ra khi Ngài sanh: 

  1. Làm Chuyển luân vương và xuất gia tỳ khưu trước sự hiện diện của Đức Phật Koṇḍañña.
  2. Làm Bà-la-môn Maṅgala và xuất gia tỳ khưu trước sự hiện diện của Đức Phật Siddhattha.
  3. Làm Bà-la-môn Uttara và xuất gia tỳ khưu trước sự hiện diện của Đức Phật Sumedha.
  4. Làm vua Chuyển luân và xuất gia tỳ khưu trước sự hiện diện của Đức Phật Sujāta.
  5. Làm vua Vijitāvī và xuất gia tỳ khưu trước sự hiện diện của Đức Phật Phussa.
  6. Làm vua Sudassana và xuất gia tỳ khưu trước sự hiện diện của Đức Phật Vessabhū
  7. Làm vua Khema và xuất gia tỳ khưu trước sự hiện diện của Đức Phật Kakusandha.
  8. Làm vua Pabbata và xuất gia tỳ khưu trước sự hiện diện của Đức Phật Koṇāgamana, và 
  9. Làm Bà-la-môn Jotipāla và xuất gia tỳ khưu trước sự hiện diện của Đức Phật Kassapa.

Như vậy, Ngài ược thọ ký trong 9 kiếp làm tỳ khưu.

Năm kiếp làm cư sĩ 

Ngài ược thọ ký trong 5 kiếp làm cư sĩ:

  1. Làm Bà-la-môn Atideva và ược Đức Phật Revatā thọ ký.
  2. Làm Bà-la-môn Ajita và ược Đức Phật Sobhita thọ ký.
  3. Làm trưởng giả Jatila và ược Đức Phật Padumuttara thọ ký.
  4. Làm thanh niên Bà-la-môn Kassapa và   ược Đức Phật

Piyadassī thọ ký.

  1. Làm vua Ariṇḍama và ược Đức Phật Sikhī thọ ký.

Hai kiếp làm Long vương 

Ngài cũng ược thọ ký trong kiếp:

(a) Làm Long vương Atula, từ Đức Phật Sumana và  (b) Làm Long vương Atula, từ Đức Phật Vipassī.

Ba kiếp khác

       Ngài nhận ược sự thọ ký trong các kiếp sống khác nhau: 

  1. Trong một kiếp làm Sakka, vua của chư thiên, Ngài tiếp nhận sự thọ ký từ Đức Phật Dhammadassī.
  2. Một kiếp khác làm nguyên soái dạ-xoa, Ngài tiếp nhận sự thọ ký từ Đức Phật Anomadassī, và 
  3. Một kiếp làm sư tử vương và ược Đức Phật Paduma thọ ký.

Cơ hội hy hữu ược gặp giáo pháp của Đức Phật 

Như chúng ta ã biết, suốt bốn A-tăng-kỳ và một trăm ngàn ại kiếp thực hành các pháp Ba-la-mật, chỉ trong hai mươi bốn kiếp từ Đức Phật Dīpaṅkarā ến Đức Phật Kassapa, Bồ tát Gotama của chúng ta mới ược gặp giáo pháp của Đức Phật - hãy khắc ghi iều này trong tâm. Chúng ta nên nhận biết sâu sắc rằng ược gặp Giáo pháp của Đức Phật không phải là chuyện dễ, rất hy hữu và ó cũng là một diễm phúc vô cùng to lớn. Biết vậy, chúng ta nên tận dụng triệt ể cơ hội hiếm hoi này, không nên bỏ lỡ.

   Được xuất gia trong Giáo pháp của Đức Phật là iều hy hữu 

Ngay cả một chúng sanh vĩ ại như Bồ tát, bậc ã ược thọ ký từ Đức Phật Nhiên Đăng, chỉ gặp ược giáo pháp hai mươi bốn lần. Thật quá hiếm hoi, khi chúng ta xét ến thời gian dài như vậy. Lại nữa, trong hai mươi bốn thời kỳ giáo pháp của hai mươi bốn vị Phật ấy, Bồ tát của chúng ta chỉ xuất gia tỳ khưu có chín lần. Rõ ràng xuất gia làm một vị tỳ khưu là iều nan ắc, úng như câu kinh “Pabbajitabhāvo dullabho - Làm tỳ khưu rất khó.” Đối với vị Bồ tát ã ược thọ ký và hy hữu lắm mới gặp giáo pháp của Đức Phật ể xuất gia làm tỳ khưu, thế thì ối với người bình thường còn bội phần khó khăn hơn.

               Tỳ khưu tạm thời hay Tỳ khưu gieo duyên                                (Dullbha Bhikkhu) 

Ngày nay ở các xứ Phật giáo, những người có sự suy xét thấu áo - khi ang vất vả kiếm sống mà gặp những ngày nghỉ, không làm việc, họ ắp y xuất gia tạm thời ể thời gian nhàn rỗi của họ không trôi qua một cách uổng phí. Họ muốn tận dụng thời gian ấy ể làm lợi ích cho chính họ. Vị tỳ khưu như vậy ược gọi là “Dullabha bhikkhu.”  Ý nghĩa là: Dù họ không thể xuất gian làm tỳ khưu suốt ời, họ cố gắng thực hiện thành tựu ời sống Sa-môn trong một thời gian ngắn ngủi, ó là cơ hội hiếm hoi và quý báu nhất trong cuộc ời.

Nếu không suy xét úng ý nghĩa của nó, người ta chắc chắn sẽ quan niệm sai lầm rằng chỉ vị tỳ khưu xuất gia tạm thời như vậy mới là ‘dullabha bhikkhu’, còn người xuất gia sa-di khi còn nhỏ và ến khi ủ tuổi xuất gia tỳ khưu thì không phải là ‘dullabha bhikkhu’. Do quan niệm như vậy người ta có khuynh hướng bố thí cúng dường ến vị ‘dullabha bhikkhu’ nhiều hơn vị tỳ khưu tu lâu từ khi còn nhỏ. Nếu cho rằng xuất gia làm tỳ khưu tạm thời là hy hữu và quý báu, tại sao không nghĩ rằng sự xuất gia làm tỳ khưu tu lâu dài càng khó hơn.

Vương thần và sự xuất gia Tỳ khưu 

Có một số người nói rằng vì có iều luật: “Na bhikkhave rājabhato pabbājetabbo - Này các tỳ khưu, các vị vương thần không ược xuất gia làm tỳ khưu Tăng chúng”. Ngay cả họ có xin ược xuất gia tỳ khưu trong thời gian rãnh rỗi công việc, Tăng oàn không ược phép áp ứng yêu cầu của họ vì nó trái với iều luật, nên các quan chức ngày nay không ược phép xuất gia.

Nói như vậy cũng không úng. Trong phần Chú giải về Rājabhata vatthu, Mahā-khandhaka của bộ Chú giải Vinaya Mahāvagga Atthakathā có oạn giải thích rằng : Dù xuất thân từ ịa vị vương thần nhưng hiện tại người ấy ã không còn lãnh lương bỗng của vua; người ấy ã trao chức quyền của mình cho con trai hoặc em trai, ã xin phép ức vua ược từ quan, người ấy ã làm ầy ủ các phận sự của mình và người ấy ược phép xuất gia tỳ khưu. Tất cả những người như vậy thì hợp lệ ể xuất gia làm tỳ khưu. Căn cứ vào lời giải thích này, các viên chức nếu muốn tu tỳ khưu trọn ời, họ có thể làm như vậy sau khi hồi lại tiền lương của họ cho nhà nước hoặc sau khi ược nhà nước cho phép với lời phê chuẩn rằng: “Anh có thể xuất gia nếu anh muốn.”

Điều Luật: “Không nên thâu nhận các vương thần vào Tăng chúng,” ược ban hành chỉ liên quan ến những người muốn nương vào Tăng chúng ể trốn tránh nhiệm vụ ược vua giao mà thôi (iều này có thể thấy rõ trong bộ kinh Rājabhata Vatthu). Các nhân viên nhà nước ngày này không có ý ịnh trốn tránh công việc, thực tế thì họ còn sợ bị uổi việc là khác. Do ó, những người xuất gia làm tỳ khưu tạm thời không i ngược với iều Luật trong bộ Vinaya Mahāvagga, miễn sao họ ược cấp trên có thẩm quyền cho phép.

Ngay cả người xuất gia có ý ịnh trốn tránh nghĩa vụ nhà nước là phạm vào iều luật. Sự vi phạm này thuộc về những vị tỳ khưu cho xuất gia, vị tỳ khưu không vi phạm iều xuất gia. Điều này ược ề cập trong văn bản Luật tạng. 

Một cách suy nghĩ khác như thế này: 

Ngay cả bậc ại sĩ như Bồ tát của chúng ta, ược thọ ký rồi chỉ làm tỳ khưu ược chín lần dù Ngài ã gặp hai mươi bốn vị Phật. Từ sự kiện này người ta có thể nói rằng: “Được thành tựu ời sống của vị tỳ khưu là hy hữu.” Nhưng nếu chúng ta xét qua những oạn trong bộ Buddhavaṃsa: Bốn trăm ngàn vị A-la-hán i theo Đức Phật Nhiên Đăng i vào thành phố Rammavattī ể khất thực, và có một trăm ngàn vị A-la-hán trong kỳ Đại hội Thánh Tăng lần thứ nhất, với số lượng các vị A-la-hán rất lớn nên người ta có thể nghĩ rằng không khó ể xuất gia làm tỳ khưu.

Câu nói: “Được xuất gia làm tỳ khưu là hy hữu” có nghĩa rằng “Hiếm khi có ược những hoàn cảnh thuận duyên như vậy.” Mỗi lần Bồ tát gặp giáo pháp của Đức Phật mà Ngài khó xuất gia làm tỳ khưu do hoàn cảnh không thuận tiện. Số ông những vị A-la-hán trong thời Đức Phật Nhiên Đăng là những bậc thuận duyên xuất gia và ắc ạo. Dù cố gắng thế nào chăng nữa, nếu hoàn cảnh không thuận duyên thì cũng khó ạt ược kết quả. Nói cách khác, kết quả có thể dễ dàng thành ạt khi hoàn cảnh thuận lợi.

Chính vì các Ngài ã viên mãn các pháp Ba-la-mật trong kiếp quá khứ và tất cả những yếu tố khác dẫn ến ạo quả A-la-hán nên các Ngài dễ dàng thành tựu pháp xuất gia và chứng ắc Đạo Quả.

Trong bài kinh Bālapaṇḍita, Suññata Vagga, Uparipaññāsa (Trung bộ kinh) có một ví dụ về con rùa mù liên quan ến câu nói: “Manussattabhāvo dullabho - Được làm người là iều khó.” Giả sử một người ném cái ách, trong ách có một lỗ xuống biển. Cái ách ấy gặp gió từ hướng Đông sẽ trôi dạt về hướng Tây và gặp gió Tây sẽ trôi dạt về hướng Đông. Gặp gió Bắc nó sẽ trôi về hướng Nam và sẽ trôi về hướng Bắc nếu gặp gió Nam. Con rùa mù ở trong biển cứ một trăm năm mới trồi lên mặt nước một lần. Cơ hội ể cái ầu của nó lọt vào lỗ hỗng của cái ách quả thật rất hy hữu. Đối với chúng sanh bị ọa vào khổ cảnh, thì việc tái sanh làm người quả thật trăm lần khó khăn hơn.

Theo ví dụ trên thì sự tái sanh làm người là hy hữu. Nhưng trong các bộ kinh Apadana, Vimanavatthu, v.v... thì hạnh phúc của cõi người và cõi chư thiên có thể ạt ược trong nhiều kiếp do quả cúng dường một bông hoa ến Xá lợi của Đức Phật. Điều này dẫn ến quan niệm rằng: “Sanh làm người là dễ chứ không khó.” Bộ kinh Apadāna và những bộ tương tự nói rằng những kẻ không thể tái sanh làm người là do thiếu những duyên cần thiết. Bài kinh Bālapaṇḍita và những bài kinh tương tự như vậy có nội dung liên quan ến khả năng tái sanh làm người trong nhiều kiếp do sự cúng dường chỉ một bông hoa. Sự hy hữu về ời sống tỳ khưu cũng ược xem theo cách như thế.

Nói về kiếp sống làm người, dầu có quan iểm cho là (nếu người ta không suy gẫm thấu áo) sanh làm người không khó vì sự kiện rằng dân số trên thế giới ngày một gia tăng, nhưng nên biết rằng số chúng sanh trong bốn khổ cảnh gấp nhiều lần hơn so với số người trên thế giới. Ngay cả trong cõi súc sanh cũng có vô số chủng loại. Nếu chúng ta chỉ xét riêng số lượng của loài người thì vô số chủng loại súc sanh quả thật vượt xa hơn nhiều. Kết luận rằng, từ số lượng không kể xiết của chúng sanh trong bốn khổ cảnh cũng như số lượng có giới hạn của loài người, ta thấy rõ ràng là sự tái sanh vào cõi người quả thật rất hy hữu.

Tương tự, mỗi lần có Giáo pháp của một vị Phật xuất hiện trong thế gian mà ược xuất gia vào Tăng chúng thật không dễ dàng. Những người có sẵn phước ặc biệt ể trở thành tỳ khưu trong Giáo pháp của một vị Phật, các vị này không chỉ ược trở thành tỳ khưu mà còn trở thành những vị A-la-hán nữa. Nhưng không vì thế chúng ta cho rằng xuất gia làm tỳ khưu là dễ dàng, chỉ vì họ ược gặp Đức Phật trong những hoàn cảnh thuận tiện.

Nói cách khác, người có ược hai yếu tố ể có thể trở thành tỳ khưu là: (1) sanh trong thời kỳ giáo pháp của Đức Phật mà rất khó gặp (Buddh’uppāda dullābha), và (2) làm người rất khó xảy ra (manussatta dullābha). Dù ược sanh làm người nhưng hoàn toàn không có khả năng thành vị tỳ khưu khi thiếu vắng Giáo pháp của Đức Phật hoặc không ược xuất gia làm tỳ khưu trong Giáo pháp của Đức Phật. Lại càng không thể nếu sanh làm chư thiên, Đế thích, Phạm thiên hoặc chúng sanh ở ọa xứ cho dù có xuất hiện Giáo pháp của Đức Phật. Trong hai sự kiện này, sanh trong thời kỳ Giáo pháp của Đức Phật ược gọi là Buddh’uppāda navama khó xảy ra hơn. Chỉ khi nào có xuất hiện một vị Phật mới có Giáo pháp của Ngài. Và ể xuất hiện một vị Phật, Ngài ã phải trải qua ít nhất là bốn A-tăng-kỳ và một trăm ngàn ại kiếp ngay sau khi nhận ược sự thọ ký thành Phật. Trong thời gian rất dài như vậy, vị Bồ tát bất thối ấy ã phải tinh tấn chuyên cần thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật. Cuối cùng một vị Phật xuất hiện và Giáo pháp của Ngài tỏa sáng, nhưng nếu ta không ược tái sanh làm người hoặc ược làm người mà gặp những chướng ngại khác thì ta cũng khó có thể trở thành tỳ khưu. Xét cho kỹ iều này, chúng ta có thể nói rằng xuất gia làm tỳ khưu còn khó hơn ược gặp Giáo pháp của Đức Phật.

Những người do quả phước ã gieo tạo trong quá khứ, họ có hai iều kiện là ược gặp Giáo pháp và ược làm người khó ược - sẽ không gặp nhiều khó khăn trên bước ường xuất gia. Quan iểm rằng xuất gia làm tỳ khưu là iều ơn giản, căn cứ vào sự kiện hằng chục triệu vị A-la-hán trong thời kỳ của Đức Phật Nhiên Đăng có ược hai iều kiện là làm người và gặp ược giáo pháp của Đức Phật. Tuy nhiên có ược hai cận y duyên này ể trở thành vị tỳ khưu quả thật rất khó, cho nên Đức Phật mới dạy rằng: “Xuất gia làm tỳ khưu quả rất hy hữu.”

Đạo sĩ Sumedha, tức Bồ tát của chúng ta, trước khi gặp Đức Phật Nhiên Đăng và khi còn trẻ, ã chuyên tâm vào pháp bố thí bằng cách cho i tất cả tài sản của vị ấy, ã thực hiện pháp xuất gia bằng cách từ bỏ ời sống gia ình sống không gia ình, ã chuyên tâm vào giới bằng cách thọ trì các giới của ạo sĩ, nỗ lực ạt thiền ịnh và thần thông. Sau ó Ngài nhận ược sự thọ ký từ Đức Phật Nhiên Đăng rồi Ngài suy xét về các pháp Ba-la-mật, nỗ lực và thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật bắt ầu từ pháp bố thí qua bốn cách tu tập trải qua bốn A-tăng-kỳ và một trăm ngàn ại kiếp cho ến kiếp sanh làm thái tử Vessantara.

Trong việc thực hành mười pháp Ba-la-mật (như ã ược nêu ra trong bộ Atthasalinī và bộ Chú giải Pāthajātaka), nói về Bố thí ba-lamật, những kiếp mà Ngài thực hành pháp Bố thí là vô số kể, ơn cử là những kiếp sanh làm Bà-la-môn Akitti, Bà-la-môn Saṅkha, vua Dhanañjaya, vua Mahā Sudassana, quốc sư Mahā Govinda, vua Nimi, thái tử Canda Kumāra, trưởng giả Visayha, vua Sivi và thái tử Vessantara, v.v... Những iểm ặc biệt ược nểu ra trong những bộ

Chú giải ấy là: Sự bố thí mà Bồ tát thực hiện trong kiếp làm thỏ của Ngài là sự bố thí mạng sống, ược xem là pháp Bố thí Ba-la-mật cao nhất (Paramattha dāna pāramī).

Về Giới Ba-la-mật, những kiếp mà Ngài thọ trì giới là vô số kể, ơn cử là những kiếp Ngài sanh làm long vương Campeyya, long vương Bhūridatta, voi chúa Chaddanta, thái tử Jayadisa, thái tử Alīnasattu, v.v... Đặc biệt, sự hy sinh mạng sống ể thọ trì giới khi Ngài sanh làm long vương Saṅkhapāla là Giới Ba-la-mật cao nhất (Paramattha sila pāramī).

Về Xuất gia Ba-la-mật, những kiếp Ngài từ bỏ thế gian cũng vô số kể, ơn cử là kiếp Ngài từ bỏ vương quốc khi làm thái tử Hatthipāla, kiếp làm bậc trí tuệ Ayoghara, v.v...  Đặc biệt, sự xuất gia sau khi từ bỏ vương quyền trong kiếp sanh làm Cūla Sutasoma, trong kiếp ấy Ngài cảm thấy ghê sợ dục lạc tựa như ó là bãi nước bọt không chút dính mắc. Đó là Xuất gia Ba-la-mật cao nhất (Paramattha nekkhamma pāramī).

Về Trí tuệ Ba-la-mật, những kiếp Ngài thực hành viên mãn Trí tuệ Ba-la-mật cũng vô số kể, chẳng hạn như kiếp Ngài sanh làm bậc trí tuệ Vidhura, Mahā Govinda, Kudāla, Araka, Mahosadha, v.v...  Đặc biệt, trong kiếp sanh làm bậc trí tuệ Senaka, khả năng phán xét của Ngài rằng có con rắn trong cái bị da (không nhìn bằng mắt thường), là Trí tuệ Ba-la-mật cao nhất (Paramattha paññā pāramī). (Trong Bổn sanh Sattubhasita Jātaka)

Về Tinh tấn Ba-la-mật, những kiếp mà Ngài thực hành tinh tấn thì vô hạn, ặc biệt sự tinh tấn ược thể hiện trong việc bơi qua ại dương ở kiếp Ngài sanh làm thái tử Mahā Janaka (Mahā Janaka Jātaka) là Tinh tấn Ba-la-mật cao nhất. (Paramattha viriya pāramī).

Trong Bổn sanh Khantivāda, kiếp Ngài làm ạo sĩ Khantivādī, sự nhẫn nại không sân hận của Ngài ể cho vua Kalābu chặt rời từng bộ phận của tứ chi là Nhẫn nại Ba-la-mật cao nhất. (Paramattha khanti pāramī).

Trong Bổn sanh Sutasoma, kiếp Ngài sanh làm vua Sutasoma, sự chân thật và giữ lời hứa của Ngài ối với vị vua ăn thịt người Porisāda, là trở lại ể giao nộp mạng sống của chính mình, ây là Chân thật Ba-la-mật cao nhất. (Paramattha sacca pāramī).

Trong Bổn sanh Mugapakkha ( hoàng tử Temiya) việc Ngài là giữ im lặng trong mười sáu năm dù phải hy sinh cả tánh mạng, Ngài nhẫn nại chịu ựng những thử thách, khi thì hòa hoãn và khi thì khắc nghiệt, sự quyết tâm không thối chuyển ấy là Chí nguyện Ba-la-mật cao nhất. (Paramattha adhitthāna pāramī).

Trong Bổn sanh Ekarāja (hay Suvannasāma), tâm từ của Ngài ược rải ến vị vua ộc ác cũng như ến các loài thú như sư tử, cọp, v.v... là Bác ái Ba-la-mật cao nhất. (Paramattha mettā pāramī).

Trong Bổn sanh Lomahaṁsa - Thái ộ bình thản của Ngài trước cách xử sự của bọn trẻ trong làng như nhổ nước miếng, àm, nước nhầy lên người của Ngài cũng như sự tôn kính của các vị bô lão trong làng ối với Ngài ược thể hiện qua sự cúng dường hoa, vật thơm, v.v… thái ộ bình thản ấy là Xả Ba-la-mật cao nhất. (Paramattha upekkhā pāramī).

Những câu chuyện ược các nhà Chú giải kể lại liên quan ến sự thực hành mười pháp Ba-la-mật ược rút ra từ bộ Pātha Jātaka. Ngoại trừ năm tích truyện ngoại lệ sau thì tất cả những câu chuyện ều xảy ra trong hiền kiếp hiện tại này.

Năm tích truyện ngoại lệ là: 

  1. Seriva Vānija, Appaṇṇaka Vagga, Eka Nipāta. (Tích truyện này xảy ra cách ây năm kiếp, ược chứng minh bởi câu Pāḷi sau ây trong bộ Chú giải: “Atīte ito pañcame kappe bodhisatto seriva raṭṭhe seriva-nāmako kacchaputavānijo ahosi. - Trong kiếp thứ năm, kể từ kiếp hiện tại này, tại xứ Seriva, Bồ tát sanh làm người bán rong, thường i ây ó với những cái bị trên vai và rao bán vòng chuỗi hạt.”
  2. Lomahaṁsa Jātaka, Litta Vagga, Eka Nipāta. (Tích truyện này kể về biến cố xảy ra cách nay chín mươi mốt kiếp, ược dẫn chứng bởi câu Pāḷi trong Chú giải sau ây: “Atīte eka navuti kappamatthake bodhisatto bahirakaṃ tapaṃ vīmamsissāmī ti ājīvaka-pabbajjam pabbajitvā acelako ahosi - Trong kiếp thứ chín mươi mốt kể từ kiếp hiện tại, Bồ tát sanh làm ạo sĩ loã thể Ājīvaka ể tìm hiểu pháp khổ hạnh của ngoại ạo.”
  3. Araka Jātaka, Santhava Vagga, Duka Nipāta. (Tích truyện này kể về biến cố xảy ra cách ây bảy kiếp, ược dẫn chứng từ oạn Chú giải sau ây trong phần kết luận của Bổn sanh: Evaṃ bodhisatto aparihīnajjhāno brahmaloke nibbaṭṭitvā sattasaṃvaṭṭavivaṭṭakappe na imaṁ lokaṃ puna āgamāvi - Như vậy Bồ tát ã không bị hoại thiền và ược tái sanh vào cõi Phạm thiên và không ến cõi nhân loại trong khoảng thời gian mà trong ó kiếp tiêu hoại bảy lần và tiến triển bảy lần.”
  4. Kesava Jātaka, Cūla Kunāla Vagga, Catukka Nipāta. Câu chuyện này kể về biến cố xảy ra cách ây năm trăm bảy chục kiếp.
  5. Baka Jātaka, Kukkura Vagga, Sattaka Nipāta. Câu chuyện này kể về biến cố cũng xảy ra cách ây năm trăm bảy mươi kiếp.

Hai Bổn sanh Kesava và Baka là những tích truyện mà giữa chúng không có khoảng thời gian xen kẽ của kiếp sống. Hai câu chuyện ược nêu ra chi tiết trong bộ Chú giải có thể ược kể lại như sau: Trong bổn sanh Kesava Jātaka, ầu tiên Kesava là một ạo sĩ và sau khi mạng chung trở thành Phạm thiên Baka. Phạm thiên Baka ấy, ầu tiên tái sanh vào cõi Vehapphala (Quãng quả thiên) và sống ến năm trăm ại kiếp (mahā kappa). Khi hết tuổi thọ, vị ấy tái sanh vào cõi Subhakinha

(Biến tịnh thiên), sống sáu mươi bốn ại kiếp. Lại nữa, khi thọ mạng của vị ấy kết thúc, vị ấy tái sanh vào cõi Abhassara  (Quang âm thiên) và sống ở ó trong tám ại kiếp. 

Theo bộ Chú giải, vị ấy chấp tà kiến khi làm Phạm thiên. Điều này cho thấy rằng vị ấy sanh ến cõi Ābhassara chỉ sau khi trải qua năm trăm ại kiếp ở cõi Vehapphala. và sáu mươi bốn ại kiếp ở cõi Subhakinha, tổng cộng là năm trăm sáu mươi bốn ại kiếp. Tương truyền rằng Phạm thiên Baka chấp tà kiến khi vị ấy sanh vào cõi Ābhassara, và mặc dù không thấy ề cập là vị ấy khởi tà kiến trong ại kiếp thứ mấy của tám ại kiếp ở cõi ó. Tuy nhiên khi kết hợp hai bổn sanh, ta có thể ấn ịnh rằng khoảng năm trăm bảy chục ại kiếp ã trôi qua trước khi vị ấy khởi tà kiến.

Các thế hệ của các vị A-xà-lê ều có niềm tin rằng bất cứ Bổn sanh nào mà trong ó nhà Chú giải không nói về thời gian bắt nguồn của nó ở ại kiếp nào (kappa) như “trong ại kiếp như thế tính từ kiếp hiện tại,” mà chỉ ơn giản là “atīte” (“vào một thuở nọ”) ều thuộc về ại kiếp này. Dựa vào niềm tin này thì những câu chuyện trong bộ Aṭṭhasālinī và bộ Chú giải Pāthajātaka ều khởi sanh trong ại kiếp hiện tại (kappa) vì chúng chỉ có từ ơn giản là “atīte” ể nói về thời gian tái sanh của Bồ tát. Nhưng tất cả những câu chuyện thuộc về ại kiếp này không thể kể ra hết - chúng quá nhiều. Những câu chuyện ược kể ra chỉ là những câu chuyện có liên quan ến các tình tiết trong hiện tại. Số câu chuyện không ược kể ra thì nhiều hơn gấp bội.

Nếu chỉ một số ít câu chuyện thích áng ược thuyết giảng từ vô số câu chuyện ấy xảy ra trong ại kiếp này, thì ta có thể suy ra rằng những câu chuyện kể về sự thực hành các pháp Ba-la-mật của Bồ tát không ược kể ra phải là vô số. Ngoài ra, xét thấy rằng những kiếp mà bồ tát thực hành các pháp Ba-la-mật suốt bốn A-tăng-kỳ và một trăm ngàn ại kiếp, không thể tính ược bằng kiếp sống bình thường của con người, công việc thực hành các pháp Ba-la-mật của các Ngài quả thật quá mức tưởng tượng ối với người bình thường.

Nói cách khác, nếu người ta nghĩ về các vị Bồ tát rằng những bậc ại sĩ này, những bậc ã thực hành các pháp Ba-la-mật cao cả trong thời gian dài như vậy, phải công nhận rằng các Ngài áng ược kính trọng sâu sắc và áng ngưỡng mộ vô cùng.

Trong nhiều kiếp sống mà trong ó Bồ tát của chúng ta ã thực hành các pháp Ba-la-mật kết thúc bằng kiếp Ngài sanh làm thái tử Vessantara. Bồ tát Sumedha ầu tiên hết ã thực hành Bố thí ba-lamật bằng cách cho i tất cả những vật sở hữu của Ngài khi còn là cư sĩ và trước khi xuất gia từ bỏ thế gian. Tương tự, khi Ngài ã xuất gia làm ạo sĩ và nhận ược sự thọ ký thành Phật, Ngài suy xét về các nhân tố dẫn ến ạo quả Phật và nhận ra rằng Bố thí Ba-la-mật là pháp ầu tiên và nguyện thực hành theo. Tất cả iều này chỉ về sự thật rằng chính Bố thí Ba-la-mật mà chư Bồ tát bắt ầu trong sự thực hành các pháp Ba-la-mật của các Ngài và các Ngài cũng kết thúc sự thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật bằng pháp Bố thí như trong kiếp của thái tử Vessantara.

Bố thí Ba-la-mật cho kết quả là Bhavasampatti “sự thành tựu về ời sống phạm hạnh và của cải (bhogasampatti)” (Ba-la-mật này i theo như bóng theo hình mà không thể bị ngăn cản cho ến khi hành giả chứng ngộ Niết bàn). Nó rất cần thiết ối với tất cả những ai còn tái sanh từ kiếp này sang kiếp khác trong luân hồi. (Như ã ề cập trong chương Bố thí Ba-la-mật ở bộ Anudīpanī) vì chư Bồ tát là những người dẫn dắt chúng sanh trong vòng luân hồi nên các Ngài ặc biệt thực hành Ba-la-mật này trong kiếp cuối cùng giống như của thái tử Vessantara. Sau khi thực hành pháp Bố thí Ba-la-mật viên mãn trong kiếp cuối cùng, chư vị Bồ tát kết thúc phận sự thực hành Ba-la-mật. Sự thực hành của các Ngài ã hoàn tất nên các Ngài từ kiếp cuối cùng sanh về cõi Đâu-suất-à ể ợi úng thời gian thành Phật.

                          Tám iểm khác biệt (Vematta) 

Tám iểm khác biệt này ược nêu ra ở cuối phần lịch sử Đức Phật Gotama trong bộ Chú giải Buddhavaṃsa. Trong tác phẩm này, vematta ược nêu ra ở cuối lịch sử của hai mươi bốn vị Phật ể chúng không quá xa với loạt lịch sử có liên quan, bắt ầu từ lịch sử của Đức Phật Nhiên Đăng.

Vematta là từ Pāḷi xuất phát từ chữ Vimatta (‘vi’ nghĩa là ‘sai biệt’ và matta nghĩa là ‘chiều dài’ hay ‘kích cỡ’). Chư Phật có những ân ức giống nhau và như nhau, nhưng các Ngài khác nhau về tám iểm ặc biệt.

Tám iểm ặc biệt ấy là:

  1. Ayu vematta - Thọ mạng sai biệt 
  2. Pamāna vematta - Xích lượng sai biệt (sự khác biệt về chiều cao )
  3. Kula vematta - Tộc tánh sai biệt (sự sai biệt về dòng họ)
  4. Padhāna vematta - Tinh cần sai biệt (sự khác biệt về thời gian thực hành khổ hạnh )
  5. Rasmi vematta - Hào quang sai biệt (sự khác biệt về hào quang từ thân )
  6. Yana vematta - Xa thừa sai biệt (sự khác biệt về các phương tiện chuyên chở trong việc xuất gia )
  7. Bodhi vematta - Bồ-ề thọ sai biệt (sự khác biệt về cây giác ngộ )
  8. Pallaṅka vematta - Bảo tọa sai biệt (sự khác biệt về bồ oàn giác ngộ )

1.  Ayu vematta (Thọ mạng sai biệt)

Ayu vematta là sự khác biệt về tuổi thọ của chư Phật. Chư Phật

Dīpaṅkarā, Koṇḍañña. Anomadassī, Paduma, Padumuttara, Atthadassī, Dhammadassī, Siddhattha và Tissa. Chín vị Phật này xuất hiện khi thọ mạng của loài người là một trăm ngàn tuổi.

Chư Phật Maṅgala, Sumana, Sobhita, Nārada, Sumedha, Sujāta, Piyadassī và Phussa. Tám vị Phật này ều xuất hiện khi thọ mạng của loài người là chín  mươi ngàn tuổi.

Chư Phật Revatā và Vesabhū, hai vị Phật này xuất hiện khi thọ mạng là sáu ngàn tuổi.

Đức Phật Vipassī xuất hiện khi thọ mạng là tám chục ngàn tuổi; Đức Phật Sikhī xuất hiện khi thọ mạng là bảy chục ngàn tuổi; Đức

Phật Kakusandha xuất hiện khi thọ mạng là bốn chục ngàn tuổi; Đức Phật Konāgamana xuất hiện khi thọ mạng là ba chục ngàn tuổi; Đức Phật Kassapa xuất hiện khi thọ mạng là hai chục ngàn tuổi và Đức Phật Gotama của chúng ta xuất hiện thọ mạng là một trăm tuổi.

Người ta có lẽ lý luận rằng những vị Phật này nên có thọ mạng bằng nhau vì các Ngài ều là những bậc ại sĩ ã thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật ở mức ộ cao nhất.

Về vấn ề này, một bài giải thích chi tiết ược nêu ra của phần Chú giải về bài kinh Mahā Padāna của bộ Sutta Mahā Vagga Aṭṭhakathā ược trích dẫn như sau: Thọ mạng của loài người trong thế gian tùy thuộc vào sự thọ trì ạo ức chánh pháp của người cai trị. Khi người cai trị tuân giữ ạo ức thì tất cả dân chúng trong nước cũng làm theo và chư thiên cũng vậy, sẽ làm cho có mưa và ban xuống nhiều iều lợi ích khác. Điều này dẫn ến mưa thuận gió hoà và rau trái ngon bổ, v.v… khiến dân chúng ược khỏe mạnh và sống lâu. Khi người cai trị không tuân giữ ạo ức thì người dân cũng vậy và chư thiên cũng không quan tâm ến việc tạo mưa ầy ủ và những iều kiện thuận lợi khác. Hậu quả là rau trái xấu i, thiếu dưỡng chất và khí hậu bất thường. Kết quả là dân chúng không ược khỏe mạnh, và tuổi thọ ngắn i.

Như vậy, chư Phật xuất hiện trong thời kỳ có thọ mạng lâu dài sẽ trường thọ và chư Phật xuất hiện trong thời kỳ có thọ mạng ngắn thì cũng theo quy luật ó.

Dù tất cả chư Phật có khả năng kéo dài tuổi thọ của các Ngài do kết quả của nghiệp quá khứ tác ộng ến sự thọ sanh, nhưng thọ mạng của các Ngài vẫn khác nhau. Theo bộ Chú giải Buddhavaṁsa, trong ó nói rằng: “Upacita puññasambhārānaṃ dīghāyukasamvattanika – kammasam-upetānaṃ pi buddhānaṃ yuga-vasena āyuppamānaṃ asamanaṃ ahosi - dù các Ngài có ầy ủ phước quá khứ có thể em lại sự trường thọ, nhưng tuổi thọ của chư Phật vẫn không giống nhau tùy theo thọ kiếp (āyu-kappa) của các Ngài.”

Lấy một ví dụ trong thế gian - cây gỗ tếch có khả năng sống ến một ngàn năm, nhưng nếu hạt của nó ược gieo xuống trên vùng ất khô cằn sỏi á thì nó không thể sống lâu ến thời gian ấy. Tương tự, tuy phước nghiệp của chư vị Bồ tát trong kiếp cuối tạo ra sự thọ sanh và có khả năng làm cho thọ mạng ược lâu dài, nhưng nếu các Ngài chứng ắc Phật quả trong thời kỳ thế gian có thọ kiếp ngắn ngủi, giống như cây gỗ tếch mọc ở vùng ất khô cằn, thọ mạng của các Ngài cũng theo qui luật ó.

Thọ mạng mà chư Phật xuất hiện 

Chư Phật không xuất hiện trong kiếp mà thọ mạng của loài người ang ở trong thời kỳ tăng lên. Vì nếu Đức Phật xuất hiện trong kiếp như vậy và thuyết pháp về vô thường, v.v... thì chúng sanh sẽ không hiều về các tướng vô thường, khổ và vô ngã của các pháp hữu vi vì tuổi thọ của họ quá dài, hết kiếp này sang kiếp khác. Vì lý do này, chư Phật không xuất hiện trong những kiếp tăng, các Ngài chỉ xuất hiện trong những kiếp giảm mà thôi.

Ngày cả trong những kiếp giảm, chư Phật cũng chỉ xuất hiện trong những kiếp có thọ mạng cao nhất là một trăm ngàn năm. Các Ngài không xuất hiện trong những kiếp có thọ mạng nhiều hơn một trăm ngàn năm vì sự thuyết pháp của các Ngài về Tam tướng của các pháp hữu vi lúc ấy sẽ giống như nước ổ lá môn. Khi thọ mạng giảm từ một trăm ngàn năm ến mức thấp nhất là một trăm năm, trong khoảng thời gian ấy chư Phật mới xuất hiện. Khi thọ mạng giảm xuống thấp hơn một trăm năm thì chư Phật sẽ không xuất hiện, vì ặc tính của các pháp hữu vi hiển lộ rõ ràng, những ô nhiễm tham sân si ngày càng tăng, chúng sanh phiền não quá nhiều nên họ không thể chứng ngộ ược Tam tướng - vô thường, khổ và vô ngã trong thọ mạng ngắn ngủi này. Do ó, những thọ kiếp thấp hơn một trăm năm ều không có chư Phật xuất hiện.

 Như vậy chư Phật chỉ xuất hiện trong những kiếp có thọ mạng cao nhất là một trăm ngàn tuổi và thấp nhất là một trăm tuổi. Tuy chư Phật xuất hiện trong khoảng thời gian ấy, nhưng các Ngài chỉ xuất hiện ở thọ kiếp nào có thọ mạng phù hợp với thọ mạng của kiếp mà các Ngài hoàn tất các pháp Ba-la-mật lúc còn là Bồ tát. Những vị Bồ tát hoàn tất phận sự thực hành các pháp Ba-la-mật trong kiếp có tuổi thọ là một trăm ngàn năm thì các Ngài sẽ thành Phật trong kiếp có thọ mạng ấy. Những vị Bồ tát chưa hoàn tất phận sự thực hành các pháp Ba-la-mật và không thể thành Phật trong kiếp có thọ mạng một trăm ngàn năm, mà chỉ xuất hiện thành Phật trong những kiếp nào có thọ mạng giống như kiếp mà các Ngài hoàn tất các pháp Ba-la-mật. Những kiếp như vậy có thể là những kiếp có thọ mạng chín chục ngàn năm, hoặc tám chục ngàn năm, bảy chục ngàn năm, sáu chục ngàn năm, v.v.... 

Trong hiền kiếp Bhadda kappa này, Đức Phật Kakusandha xuất hiện trong kiếp có thọ mạng bốn chục ngàn năm (sau Ngài một trung kiếp (antara kappa) trôi qua), và Đức Phật Koṇāgamana xuất hiện trong kiếp có thọ mạng ba chục ngàn năm (rồi một trung kiếp trôi qua), và Đức Phật Kassapa xuất hiện trong kiếp có thọ mạng hai chục ngàn năm. Từ dữ liệu này, chúng ta có thể oán ra rằng Đức Phật Gotama của chúng ta sẽ xuất hiện theo cách tương tự như thế, tức là trong thọ kiếp mười ngàn năm khi một trung kiếp ã trôi qua sau Đức Phật Kassapa. Nhưng Ngài không thể xuất hiện khi ấy vì các pháp Bala-mật của Ngài chưa ạt ến mức thành thục. Ngài cũng không thể xuất hiện trong thọ kiếp năm ngàn năm, hoặc một ngàn năm hoặc một trăm năm. Lý do là sự thành tựu viên mãn các pháp Ba-la-mật của Ngài chỉ xảy ra kiếp Ngài sanh làm thái tử Vessantara. (Chỉ trong kiếp ấy các pháp Ba-la-mật của Ngài mới thành tựu viên mãn). Kiếp Ngài sanh làm thái tử Vessantara xảy ra trong kiếp có thọ mạng là một trăm năm. Kể từ ó phận sự thực hành các pháp Ba-la-mật của Ngài i ến chỗ kết thúc (các pháp Ba-la-mật ã ược thành tựu viên mãn). Như vậy, Đức Phật Gotama chỉ xuất hiện trong kiếp có cùng thọ mạng là một trăm năm.

2. Pamāṇa Vematta (Xích lượng sai biệt) 

Pamāṇa vematta là sự khác biệt về chiều cao của chư Phật.

Chiều cao của sáu vị Phật Dīpaṅkarā, Revata, Piyadassī, Atthadassī, Dhammadassī và Vipassī là tám mươi hắc tay.

Chiều cao của bốn vị Phật Koṇḍañña, Maṅgala, Nārada và Sumedha là tám mươi tám hắc tay.

Chiều cao của Đức Phật Sumana là chín mươi hắc tay.

Chiều cao của năm vị Phật Sobhita, Anomadassī, Paduma, Padumuttara và Phussa là năm mươi tám hắc tay.

Chiều cao của Đức Phật Sujāta là năm mươi hắc tay.

Chiều cao của ba vị Phật Siddhattha, Tissa và Vessabhū là sáu mươi hắc tay.

Chiều cao của Đức Phật Sikhī là bảy mươi hắc tay.

Các chiều cao của những vị Phật Kakusandha, Koṇāgamana và Kassapa lần lượt là bốn mươi, ba mươi và hai mươi hắc tay.

Đức Phật Gotama cao mười sáu hay mười tám hắc tay.

Cần chú ý rằng những sai biệt về chiều cao của chư Phật ược tạo ra do bởi khí hậu và vật thực. Vì chư Phật xuất hiện từ cõi nhân loại mang hình hài của con người nên thọ mạng của các Ngài tự nhiên giống như thọ mạng của bao người khác trong thời kỳ ấy. Chư Phật xuất hiện trong thời kỳ có thọ mạng chín chục ngàn năm thì các Ngài cũng sống ến chín chục ngàn năm. Như vậy thọ mạng của chư Phật phù hợp với thọ mạng của loài người.

Tuy nhiên, chiều cao của các Ngài không thể quyết ịnh do thọ mạng của các Ngài dù các Ngài xuất hiện có cùng thọ mạng chẳng hạn một trăm năm, nhưng chư Phật Dīpaṅkarā, Atthadassī và Dhammadassī chỉ cao tám mươi hắc tay, còn Đức Phật Koṇḍañña thì cao tám mươi tám hắc tay; chư Phật Anomadassī, Paduma và Padumuttara thì cao năm mươi tám hắc tay, chư Phật Siddhattha và Tissa thì cao sáu mươi hắc tay. Điều này cho thấy rằng chiều cao của chư Phật không liên quan ến thọ mạng của các Ngài. Nếu chư Phật có cùng tuổi thọ mà khác nhau về chiều cao như vậy thì chư Phật xuất hiện trong những thời kỳ khác nhau cũng thế.

Qua câu nói trong iều học Nanda Sikkhāpada, Ratanavagga, pācittiya Pāḷi, Vinaya Piṭaka, rằng người em trai của Đức Phật - ại ức Nanda, chỉ thấp hơn Đức Phật bốn lóng tay, có thể nói rằng những người khác cùng thời cao gần bằng Đức Phật. Do ó, có thể suy ra rằng chiều cao của Đức Phật bằng với chiều cao của những người cùng thời với Ngài. Nhưng nói vậy không có nghĩa là hai bên ều cao bằng nhau một cách chính xác.

Sở dĩ Đức Phật với những người ồng thời có chiều cao gần bằng nhau là do hai yếu tố khí hậu và vật thực. khi người cai trị và dân chúng trong nước không gìn giữ ạo ức (ngoại trừ những bậc Thánh và các bậc hiền trí) thì xảy ra khí hậu bất thường và vật thực thiếu chất bổ dưỡng; nên thể chất của con người cũng bị ảnh hưởng theo, không thể phát triển hết mức. Ngược lại, thể chất sẽ phát triển tốt nếu ạo ức hưng thịnh trong dân chúng.

3. Kula vematta (Tộc tánh sai biệt)

Kula vematta là sự khác biệt về dòng tộc của chư Phật.

Chư Phật Kakusandha, Koṇāgamana và Kassapa xuất thân từ dòng Bà-la-môn, trong khi ó hai mươi hai vị Phật còn lại ều sanh ra trong dòng Khattiya (Sát-ế-lỵ). Khi mọi người trong thế gian công nhận những vị Khattiya là cao quý thì chư Phật xuất thân từ dòng dõi Khattiya. Khi họ công nhận các vị Bà-la-môn là cao quý nhất thì chư Phật sanh ra từ dòng Bà-la-môn.

4. Padhāna vematta (Tinh cần sai biệt) 

Padhāna vematta là sự khác biệt về thời gian tu khổ hạnh (dukkaracariyā)

Bảy vị Phật Dīpaṅkarā, Koṇḍañña, Sumana, Anomadassi, Sujāta, Siddhattha và Kakusandha ều thực hành pháp khổ hạnh trong mười tháng.

Bốn vị Phật Maṅgala, Sumedha, Tissa và Sikhī ều thực hành khổ hạnh trong tám tháng.

Đức Phật Revatā thực hành khổ hạnh trong bảy tháng và Đức Phật Sobhita thực hành khổ hành trong bốn tháng.

Ba vị Phật Paduma, Atthadassī, và Vipassī ều thực hành khổ hạnh trong nửa tháng (mười lăm ngày).

Bốn vị Phật Nārada, Padumuttara, Dhammadassī và Kassapa ều thực hành khổ hạnh trong bảy ngày.

Chư Phật Piyadassī, Phussa, Vessabhū và Koṇāgamana thực hành khổ hành trong sáu tháng.

Đức Phật Gotama của chúng ta, bậc Thế Tôn của ba cõi, có những ân ức bất khả tư nghì, ã thực hành khổ hạnh trong sáu năm.

Như có những lý do sự bất ồng về thọ mạng, v.v... ở ây cũng có duyên cớ sự khác biệt về thời gian thực hành pháp khổ hạnh ( ặc biệt trong trường hợp của Đức Phật Gotama). Qua tìm hiểu có thể thấy rằng sự khác biệt này do bởi nghiệp quá khứ của Ngài.

Nói rõ hơn - trong bài kinh Pubbakammavilotika Buddhapadāna, Avataphala Vagga, Apadāna Pāḷi, cuốn 1, chính Đức Phật dạy rằng (về ác nghiệp trổ quả trong sự thực hành khổ hạnh của Ngài, nên Ngài phải trải qua sáu năm khổ hạnh): “Avacahaṃ jotipālo sugataṃ kassapaṃ tada, v.v... -  Trong thời Đức Phật Kassapa, ta là Jotipāla, một thanh niên Bà-la-môn. Khi ấy ta ã khờ dại mà xúc phạm Ngài bằng lời nói: “Làm sao kẻ trọc ầu này có thể chứng ắc A-la-hán và Nhất thiết trí ược. Những iều ấy rất khó chứng ắc.” Do khẩu ác nghiệp ấy, ta phải trải qua sáư năm thực hành khổ hạnh trong kiếp cuối cùng.”

Xét về vấn ề ược nêu ra trực tiếp trong Kinh tạng rằng Đức Phật ã phải trải qua sáư năm ể thực hành pháp khổ hạnh do bởi sự xúc phạm trong quá khứ của Ngài; chúng ta có thể hiểu rằng những vị Phật thực hành khổ hạnh chỉ trong bảy ngày, như vậy theo úng với phước nghiệp to lớn của các Ngài.

Do ó, có thể nói rằng sự khác biệt về thời gian thực hành pháp khổ hạnh là do ảnh hưởng của nghiệp quá khứ mà các Ngài ã gieo.

Tuy các sự khác biệt về thời gian thực hành sa-môn pháp (padhana-viriya) ngay trước khi các Ngài thành Phật, nhưng khi các Ngài ã ạt ược mục tiêu cứu cánh thì mức ộ tinh tấn các Ngài ã thể hiện, là một trong sáu loại oai lực của một vị Phật, ều y như nhau.

5. Rasmi vematta (Hào quang sai biệt) 

Rasmi vematta là sự khác biệt về hào quang phát ra từ thân. 

Hào quang của Đức Phật Maṅgala chiếu sáng khắp mười ngàn thế giới; hào quang của Đức Phật Padumuttara chiếu sáng xa mười hai do tuần; hào quang của Đức Phật Vipassī xa bảy do tuần; hào quang của Đức Phật Sikhī xa ba do tuần; hào quang của Đức Phật Kakusandha xa mười do tuần; hào quang của Đức Phật Gotama xa một sải tay, tức bốn hắc tay. Hào quang của những vị Phật còn lại không thường chiếu nhưng nếu muốn, các Ngài có thể làm cho chúng chiếu xa bao nhiêu cũng ược. 

Tatra rasmi vemattaṃ ajjhasayappatibaddhaṃ. Yo yattakam icchati tassa tattaka sarirappabha pharati. Maṅgalassa pana ‘niccam pi dasa sahassilokadhatum pharatu’ti ajjhasayo ahosi. (Chú giải kinh Mahāvagga, Chatthasangayana )

Trong các iều sai biệt, hào quang sai biệt có liên quan ến ước nguyện của Đức Phật trong thời gian Ngài ang thực hành các pháp Ba-la-mật. Vào lúc thực hành các Ba-la-mật, nếu vị Bồ tát ấy muốn hào quang từ thân sẽ chiếu xa ến bao nhiêu thì khi thành Phật hào quang ấy sẽ chiếu xa bấy nhiêu. Tuy nhiên, ước nguyện trong quá khứ của Đức Phật Maṅgala là: “Xin cho hào quang của tôi chiếu sáng khắp mười ngàn thế giới. (Trong bộ Tika của bộ Chú giải này, ajjhasaya ược giải thích là lời nguyện ược nói ra, trong khi Bồ tát ang thực hành các pháp Ba-la-mật). 

Khi người ta tìm kiếm nguyên nhân về sự khác biệt giữa hào quang của các vị Phật, người ta nói rằng chính do các pháp Ba-la-mật mà các Ngài ã thực hành. Các nhà Chú giải ã giải thích trong câu chuyện về Đức Phật Maṅgala, bậc có hào quang chiếu sáng khắp mười ngàn thế giới.

Trong kiếp cuối cùng của Ngài, (giống như kiếp bồ tát Gotama sanh làm thái tử Vessantara) khi ang thực hành các pháp Ba-la-mật. Một thời Bồ tát Maṅgala ang sống với gia ình trên một ngọn ồi giống như ồi Vankapabbata. Một dạ-xoa tên là Kharadathika, trong hình tướng một vị Bà-la-môn, ã xin Bồ tát bố thí hai ứa con. Khi nghĩ rằng: “Ta sẽ hoan hỷ bố thí chúng,” Ngài thực sự ã làm thế. Khi ang ứng dựa vào cái hàng rào bằng các thanh gỗ ở cuối con ường mòn, dạ xoa ã ăn thịt ứa con trai và con gái ngay trước mặt Bồ tát, tựa như nó ang nhai những cọng sen. Khi Bồ tát nhìn vào dạ xoa, Ngài thấy những dòng máu bắn ra từ miệng của dạ xoa giống như những ngọn lửa. Nhưng Ngài không chút sầu bi “Ta ã thực hiện tốt việc bố thí.” Nghĩ như vậy, Ngài thực sự hoan hỷ với việc làm ấy. “Do kết quả của việc phước này, xin cho hào quang từ thân của tôi trong tương lai sẽ chiếu sáng như vậy.” Bồ tát ã nói lên lời nguyện như vậy. Do kết quả của lời nguyện này mà khi thành Phật, hào quang từ thân của Ngài chiếu sáng khắp nơi trong mười ngàn thế giới.

Từ bài giải thích này, chúng ta nên hiểu rằng sự khác biệt về hào quang tùy thuộc việc chư Phật ã nguyện hoặc không nguyện trong quá khứ. Khi nói về hào quang từ thân, người ta thường ám chỉ về hào quang tự nhiên của chư Phật. Nếu ược tạo ra bằng oai lực của các Ngài theo úng với ước muốn của các Ngài, thì bất cứ vị Phật nào cũng có thể phát sáng xa bao nhiêu tùy thích. Về vấn ề oai lực, hoàn toàn không có sự khác biệt. không thể nói rằng “Vị Phật này có oai lực ít hơn.” hay “Vị Phật kia có oai lực nhiều hơn.”

Ba loại hào quang từ thân 

  1. Hào quang Byāmappabhā: loại hào quang này thường xuyên phát ra từ thân tự nhiên của Đức Phật, dài một sải tay, hào quang phủ quanh thân rất dày ặc ến nỗi người ta khó có thể nhìn thấy thân của Ngài. Khi người ta nhìn vào ánh sáng của bóng èn iện cách xa khoảng một cây tre, họ sẽ nghĩ rằng ốm sáng là quả cầu lửa. Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ và gần hơn người ta có thể nhìn thấy tim của bóng èn ang cháy sáng. Y như vậy, thân của Đức Phật có hào quang bao quanh, mỗi chùm hào quang dài một sải tay. Những hào quang ấy dày ặc và rộng lớn ược gọi là byamappabhā.
  2. Hào quang Asītiniccalobhāsa: Loại hào quang này là sự liên tục chiếu sáng của loại hào quang byāmappabhā và xa tám mươi hắc tay.
  3. Hào quang Disapharana: Loại hào quang này chiếu khắp vô số thế giới do bởi máu của Đức Phật v.v… và hào quang trở nên rõ ràng hơn khi Đức Phật quán về giáo lý Paṭṭhāna (một trong bảy bộ luận) hoặc khi Ngài thị hiện Song thông, hay những trường hợp khác.

Hai loại hào quang 

Phẩm chất ặc biệt từ nước da của Đức Phật mà nhân loại, chư thiên và Phạm thiên có thể thấy ược thì gọi là hào quang. Theo tạng

Abhidhamma, hào quang byāmappabhā và hào quang asītiniccalobhāsa ược gọi là hào quang phát sanh do phước nghiệp quá khứ;  kammaja (hay hào quang phát sanh do thời tiết ược tạo ra bởi nghiệp, utuja kammapaccaya), hai loại hào quang này có nghiệp quá khứ là nhân của chúng. Hào quang do tâm sanh (cittaja) (hoặc hào quang do thời tiết sanh, do tâm làm duyên sanh - cittapaccaya-utuja) vì nguyên nhân của nó làm tâm rõ ràng.

6. Yāna vematta (Xa thừa sai biệt) 

Yāna vematta là phương tiện i lại mà Bồ tát sử dụng trong lúc xuất gia.

Đức Phật Dīpaṅkarā, Sumana, Sumedha, Phussa, Sikhī và Koṇāgamana i xuất gia bằng voi.

Đức Phật Koṇḍañña, Revata, Paduma, Piyadassī, Vipassī và Kakusandha i xuất gia bằng xe ngựa kéo.

Đức Phật Maṅgala, Sujāta, Atthadassī, Tissa và Gotama i xuất gia bằng ngựa.

Đức Phật Anomadassī, Siddhattha và Vesabhū i xuất gia bằng kiệu vàng.

Đức Phật Nārada tự mình i xuất gia ( i bộ)

Đức Phật Sobhita, Padumuttara, Dhammadassī và Kassapa i xuất gia bằng cung iện bay bỗng lên không trung.

Như vậy, sự khác biệt về phương tiện i lại mà chư Bồ tát trong lúc xuất gia ược gọi Yāna vematta.

7. Bodhi vematta (Bồ ề sai biệt) 

Bodhi vematta là sự khác biệt về cây bồ-ề, nơi thành ạo của mỗi vị Phật.

Sự thành ạo của Đức Phật Dīpaṅkarā xảy ra dưới cội cây nigrodha.

Sự thành    ạo của Đức Phật Koṇḍañña xảy ra dưới cội cây salakayanī.

Sự thành ạo của chư Phật Maṅgala, Sumana, Revata và Sobhita xảy ra dưới cội cây thiết mộc nāga.

Đức Phật Anomadassī thành ạo dưới cội cây ajjuna.

Chư Phật Paduma và Narada thành ạo dưới cội cây mahāsoṇa.

Đức Phật Padumuttara thành ạo dưới cội cây salala.

Đức Phật Sumedha thành ạo dưới cội cây mahānipa.

Đức Phật Sujāta thành ạo dưới cội cây mahāvelu.

Đức Phật Piyadassī thành ạo dưới cội cây kakudha.

Đức Phật Atthadassī thành ạo dươi cội cây campaka.

Đức Phật Dhammadassī thành ạo dưới cội cây bimbijāla.

Đức Phật Siddhattha thành ạo dưới cội cây kanikāra.

Đức Phật Tissa thành ạo dưới cội cây asana.

Đức Phật Phussa thành ạo dưới cội cây amalaka.

Đức Phật Vipassī thành ạo dưới cội cây patali.

Đức Phật Sikhī thành ạo dưới cội cây pundarika.

Đức Phật Vessabhū thành ạo dưới cội cây mahāsala.

Đức Phật Kakusandha thành ạo dưới cội cây sirisa.

Đức Phật Koṇāgamana thành ạo dưới cội cây udumbara.

Đức Phật Kassapa thành ạo dưới cội cây nigrodha.

Đức Phật Gotama thành ạo dưới cội cây assattha.

(Bốn thánh ạo ược gọi Bodhi, bởi vì nó dẫn ến trí tuệ giác ngộ Tứ diệu ế. Nhất thiết trí ược gọi là Bodhi bởi vì nó dẫn ến trí tuệ giác ngộ. Định nghĩa của nó là: Bujjhati’ ti bodhi – cái gì biết về Tứ Diệu Đế và cái gì biết iều cần biết thì cái ó là Bodhi. Cây mà nơi ó Bồ tát ngồi giác ngộ Tứ Diệu Đế và những pháp khác cần ược thông suốt cũng ược gọi là Bodhi. Định nghĩa ở ây là: “Bujjhati ettha’ti Bodhi – Dưới cái cây vị Bồ tát giác ngộ Tứ Diệu Đế và tất cả những gì cần ược biết thì ược gọi là Bodhi”).

Sự khác biệt về cây Bodhi nơi chư Bồ tát chứng ắc quả vị Phật ược gọi là Bồ ề sai biệt (Bodhi vematta )

8. Pallaṅka vematta (Bảo tọa sai biệt) 

Pallaṅka vematta là sự khác biệt về chiều cao của bảo tọa của chư Phật.

Bồ oàn giác ngộ của chư Phật Dīpaṅkarā, Revata, Piyadassī, Atthadassī, Dhammadassī và Vipassī cao năm mươi ba hắc tay.

Bồ oàn giác ngộ của chư Phật Koṇḍañña, Maṅgala, Nārada và Sumedha cao năm mươi bảy hắc tay.

Bồ oàn giác ngộ của Đức Phật Sumana cao sáu mươi hắc tay.

Bồ oàn giác ngộ của chư Phật Sobhita, Anomadassī, Paduma, Padumuttara và Phussa cao ba mươi tám hắc tay.

Bồ oàn giác ngộ của Đức Phật Sujāta cao ba mươi hai hắc tay.

Bồ oàn giác ngộ của chư Phật Siddhattha, Tissa và Vessabhū cao bốn mươi hắc tay.

Bồ oàn giác ngộ Đức Phật Sikhī cao ba mươi hai hắc tay.

Bồ oàn giác ngộ của Đức Phật Kakusandha cao hai mươi sáu hắc tay.

Bồ oàn giác ngộ của Đức Phật Koṇāgamana cao hai mươi hắc tay.

Bồ oàn giác ngộ của Đức Phật Kassapa cao mười lăm hắc tay.

Bồ oàn giác ngộ của Đức Phật Gotama cao mười bốn hắc tay.

Hai loại bảo tọa 

Về vấn ề này, nên lưu ý rằng có hai loại bảo toạ: ābhujana pallaṅkaāsana pallaṅka. Trong hai loại này, ābhujana pallaṅka nghĩa là thế ngồi kiết già như trong câu Pāḷi: “nisīdati pallankaṃ ābhujitvā” của bài kinh Mahā Satipatthāna, v.v...

Còn āsana pallaṅka nghĩa là một loại ghế ngồi. Āsana ppallaṅka có nhiều loại như seṭṭhi pallaṅka, rāja pallanka, nāga pallaṅka, deva pallaṅka, dhamma pallaṅka, bodhi pallaṅka, v.v.... 

Trong bài Chú giải của bổn sanh Mayhaka, Suci Vagga, Chakka Nipāta, có oạn nói rằng: “Gaccha imaṃ amhakaṃ gharam ānetvā mama pallanke nisīdāpetvā amhākaṃ patiyattabhattassa pattaṃ dāpehi - Ngươi hãy i thỉnh Đức Phật Độc giác về nhà ta. Hãy thỉnh Ngài ngồi trên chiếc ghế của ta và ặt vật thực dành cho ta vào trong bát của Ngài.” Đó là chiếc ghế của vị trưởng giả xứ Bārāṇasī, gọi là seṭṭhi pallaṅka - ghế của những người giàu có.

Các loại ngai vàng gồm có:

  1. Sīhāsana pallaṅka: Ngai vàng làm bằng gỗ có những hình sư tử ở dưới ế và ược ặt ở chánh phòng của hoàng cung, nơi mà ức vua chủ tọa những cuộc họp triều.
  2. Haṃsāsana pallaṅka: Ngai vàng làm bằng gỗ thingan có hình thiên nga ở ế và ược ặt ở giảng ường Jetavana, ở ó ức vua ến làm lễ Tam bảo.
  3. Saṅkhāsana pallaṅka: Ngai vàng làm bằng gỗ xoài có hình vỏ ốc ở ế và ược ặt ở trong phòng ể vua ngồi vấn khăn ầu.
  4. Bhamarāsana pallaṅka: Ngai vàng làm bằng gỗ karaway có hình con ong ở ế và ược ặt ở phòng nghỉ của vua.
  5. Gajasana pallaṅka: Ngai vàng làm bằng gỗ saga có hình con voi ở ế và ược ặt ở Byai Taik, nơi mà ức vua ban thưởng hoặc ra hình phạt.
  6. Mayurāsana pallaṅka: Ngai vàng làm bằng gỗ Pauk, có hình chin công ở ế và ược ặt ở phòng phía bắc nơi mà vua tiếp nhận những con voi và những ngựa làm cống phẩm.
  7. Migāsana pallaṅka: Ngai vàng làm bằng gỗ cây sung có hình con nai ở ế và ược ặt ở phòng phía nam nơi mà vua chủ toạ những buổi họp và 
  8. Padumāsana pallaṅka: Ngai vàng làm bằng gỗ mít có hình hoa sen ở ế và ược ặt ở phòng phía tây nơi vua ngồi ể người ta bày tỏ sự tôn vinh.

Tám loại ngai vàng này dành cho vị hoàng ế hoặc tám mươi bốn ngàn cái ngai vàng dành cho vị Chuyển luân vương, Mahā Sudassana, ược gọi là Raja pallaṅka.

Ngai vàng của Long vương thì gọi Nāga pallaṅka.

Loại ngai vàng ược nêu ra trong bài kinh Janavasabha, bài kinh Mahā Govinda v.v... của bộ Sutta Mahāvagga như sau: “Phạm thiên Sanankumāra có thể ngồi vào chiếc ngai của vị thiên, nếu vị ấy thích.” và loại bảo tọa bằng hồng ngọc có kích thước một do tuần dành cho ại ức Mahā Moggallāna, ược ề cập trong kinh Cula

Tanhasankhaya ược gọi là Deva pallaṅka.

Loại bảo tọa dành cho hai vị trả lời về Tam tạng, ại ức Upāli và ại ức Ānanda, trong cuộc kiết tập Tam tạng lần thứ nhất ược giới thiệu trong bộ Chú giải Sutta Sīlakkhandha, v.v... và những bảo tọa dành cho các bậc ạo sư như chư Phật, v.v... ược gọi là Dhamma pallaṅka.

Loại bảo tọa mà tất cả chư vị Bồ tát ngồi kiết già với chí nguyện bất thối: “Ta sẽ không bao giờ rời khỏi chỗ ngồi này chừng nào ta chưa chứng ược A-la-hán ạo tuệ và Nhất thiết trí.” Thì ược gọi là Bodhi pallaṅka. Vì ó là chỗ ngồi mà chư Phật chiến thắng ngũ ma nên bảo tọa ấy ược gọi là Vô ịch bảo tọa - Aparājita pallaṅka.

Bodhi pallaṅka là bảo tọa nằm ở hướng Đông cách cây bồ-ề bốn hắc tay, cây bồ-ề này mọc trên vùng ất thiêng Bodhi Mandala, cao một trăm hắc tay và rất xinh ẹp. Bảo tọa từ lòng ất xuất hiện ngay khi Bồ tát rải tám nắm cỏ tại chính chỗ ấy. Bảo tọa ấy có ược là do kết quả của những phước nghiệp mà Ngài ã gieo tạo trong quá khứ khi ang thực hành pháp Ba-la-mật. Bảo tọa ược trang trí bằng nhiều loại châu báu và rất lộng lẫy. Vì ó là nơi mà Bồ tát chứng ắc ạo quả A-la-hán và Nhất thiết trí, nên nó ược gọi là Bodhi Pallaṅka.

 

HẾT CUỐN 1 CỦA BỘ ĐẠI PHẬT SỬ

 

12-9, Tân Tỵ (ÂL)

]œ

.

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications