Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Danh sách các nhân vật trong thời Phật tại thế
<p>Danh sách các nhân vật trong thời Phật tại thế</p>
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:6177

Các tên gọi khác

Danh sách các nhân vật trong thời Phật tại thế

General Information

Ngày khởi tạo : 2025-11-20 20:42:36

Edit time : 11/22/2025 07:49:51 - Số lần chỉnh sửa : 33

Danh sách : Liên quan
:
Danh sách các nhân vật trong thời Phật tại thế

Danh sách các nhân vật trong thời Phật tại thế  (Đang cập nhật)

Vì nội dung đang cập nhật nên tên người có thể viết sai hoặc thuần Việt . 

1. Liên quan đến Thành Ca Tỳ La Vệ

+Đức Phật ( Thái tử Tất Đạt Đa) 

Gia đình thái tử Tất Đạt Đa

+ Vua Tịnh Phạn Suddhodana - người cha của thái tử Tất Đạt Đa ,khi Đức Phật khoảng 40 tuổi thì ông qua đời

+ Hoàng Hậu Maya : Phật mẫu , qua đời vài ngày sau khi thái tử Tất Đạt Đa ra đời. Bà được cho là lên cõi trời Tusita

+ Ni trưởng Mahā Pajāpatī Gotamī : Kế mẫu lại là người dì ruột của bồ tát Tất Đạt Đa, là ni sư đầu tiên ( đắc a la hán đầu tiên)

+Tôn giả La Hầu La   con trai bồ tát Tất Đạt , có nhiều thuyết về hoàn cảnh ra đời của ngài ( có chỗ nói bồ tát xuất gia sau khi ngài đẻ ra được thời gian ngắn, có chỗ nói khi bồ tát đi xuất gia ngài vẫn trong bụng , có chỗ nói ngài ở trong bụng mẹ 6 năm. Sau đó ngài gia nhập tăng đoàn và đắc A La Hán , thọ khoảng 50 tuổi và mất trước Đức Phật

+Da Du Đà La Theri : Người vợ nhiều kiếp của bồ tát . Bà theo nhóm Maha Pajapati cùng nhiều cung nữ dòng Thích Ca xin đi xuất gia . Sau bà đắc A La hán và mất trước Phật 1 hoặc 2 năm.

+ Tôn Giả NanĐà ( con vua Tịnh Phạn -Mahā Pajāpatī Gotamī )

+Sắc Nan Đà theri ( em gái NanĐà  con vua Tịnh Phạn - Mahā Pajāpatī Gotamī) : Thấy hầu hết thân quyến đều đã xuất gia, bà cũng xuất gia, không phải vì đức tin, mà vì tình thương dành cho thân quyến. Say mê sắc đẹp của mình, bà không đến gặp Đức Phật vì sợ Ngài khiển trách. Phần còn lại của câu chuyện rất giống với câu chuyện của Abhirūpa Nandā . 

Những người vương triều Shakya Kalivathu

King Shakyan Sīhahanu ( ông nội của bồ tát Tất Đạt Đa )  

Vương hậu Kaccānā ( -A Sākiyan princess -bà nội của Bồ tát Tất Đạt Đa

Vua Amitodana ( Cam Lộ Phạn Vương - Shakyan) : được cho là phụ thân của Devadatta và Ananda ( ngoài ra còn 1 người em gái nữa)

Vua Sukkodana ( Bạch Phạn Vương ) - người em ruột của vua Tịnh Phạn : cha của Mahanama , tôn giả A Na Luật

Hoàng hậu Amitā ( em ruột vua Tịnh Phạn , vợ vua Thiện Giác Koliya) : mẹ của ni su Da Du Đà La

Pamitā - ( em gái ruột vua Tịnh Phạn ) cũng lấy vua Thiện Giác ,và wiki cho rằng là mẹ của Da Du Đà La

+ Vợ vua Amitodana : Mẹ tôn giả Ananda và Devadatta ( Tâm học chấp nhận thuyết Devadatta là anh em chú bác đằng nội với Đức Phật - trong phim Cuộc đời Đức Phật - Đường Xưa Mây Trắng) .. Bà thím trong phim khá ghê gớm , cũng có tình ý với vua Tịnh Phạn , luôn tìm cách đưa con mình là Devadatta lên nắm vương quyền.. Cuối cùng bà cũng là 1 Phật tử , nghe theo lời dạy của Đức Phật

+ Tôn Giả A Nan Đà Ananda – Đa Văn Đệ Nhất : Con của hoàng thân Amitodana ,là anh em con chú con bác và là vị thị giả đa văn của Phật . Có chỗ nói ông sinh cùng ngày cùng năm với Phật , có chỗ nói ông kém Phật 20 tuổi là 1 vị trẻ. Nếu bằng tuổi Phật thì khó có kiếp nạn Ma Đăng Già , vì lúc đó chắc cũng ngoài 60 rồi làm sao còn đẹp trai nữa.

+ Tôn Gỉả A Na Luật ANIRUDHA Thiên Nhãn ĐệNhất : 1 hoàng thân Shakyan  , anh em chú bác với Phật , là con của vua Bạch Phạn vương , cùng với Mahanama ( vua Shakyan sau này ) , và cô em gái Rohini

Mahānāma ( Sakya) – vua kế nhiệm Tịnh Phạn vương tộc Thích Ca 1 hoàng thân Shakyan  , anh em chú bác với Phật , là con của vua Bạch Phạn vương

+ Thích Nữ Rohinī ( sanh thiên làm vợ thiên chủ)  1 hoàng thân Shakyan  , anh em chú bác với Phật , là con của vua Bạch Phạn vương

Devadatta ( ĐỀ BÀ ĐẠT ĐA ) : Anh em họ với Phật , có chỗ nói là con vua Thiện Giác ( anh em họ ngoại Phật) , có chỗ nói là con vua Amito ( anh em họ nội Phật) . Gia nhập tăng đoàn , đắc thần thông nhưng trong lòng ghen tức muốn thay Phật điều hành tăng đoàn,  phạm nhiều tội chia rẽ tăng đoàn, làm thân Phật chảy máu,  giết A La Hán ( là cừu nhân số 1). Trong các kiếp tiền thân cũng nhiều lần hại bồ tát

Trưởng lão Sappadāsa (Xà Nô) Ngài sinh ra ở Kapilavatthu là con trai của giáo sĩ của Suddhodana. Ngài đã nhận được đức tin vào dịp Đức Phật đến thăm dân tộc của mình và gia nhập Tăng đoàn. 

+ Người đánh xe Xa Nặc  : Sau xuất gia theo Phật , chậm hiểu và mắc 1 vài tội ở luật tạng . Cuối cùng thì cũng đăc A La hán

+ Ngựa Kiền Trắc - Kanthaka Chú ngựa Kiền Trắc

Những người sống trong thành và gần đó.

Đạo Sỹ Kāḷadevila ( A Tư Đà ) : 1 vị đạo sĩ bà la môn danh tiếng Ấn Độ cổ đại , là thầy vừa là hỗ trợ pháp cho vua Tịnh Phạn , người đoán điềm mộng cho vua, dự đoán tương lai thái tử sẽ là Phật

Trưởng lão Nālaka ( cháu đạo sĩ A Tư Đà )

Nhóm 5 anh em Kiều Trần Như : A Nhã Kiều Trần Như , tôn giả Mahanama ,

Kiều Trần Như: Añña Koṇḍañña Bạt Đề: Vappa Bà Sư Ba: Bhaddiya Ma Ha Nam: Mahānama A Thuyết Thị: Assaji

Tôn giả Kiều Trần Như Kaundinya – Kondanna ( VỊ ĐỆ TỬ ĐẦU TIÊN CỦA ĐỨC PHẬT)

+ Tôn giả Mahanama ( nhóm 5 vị tỳ kheo Kiều Trần Như)

TÔN GIẢ BHADDIYA - 1 trong 5 vị xuất gia đầu tiên theo Phật Tôn giả Bhaddiya là con trai của một gia đình Bà-la-môn trong kinh thành Kapilavatthu, phụ thân ngài là một trong tám vị Bà-la-môn vinh dự được chọn vào xem tướng và đặt tên cho Thái tử.

TÔN GIẢ VAPPA - 1 trong vị đệ tử đầu tiên của Đức Phật Ngài là con trai của Vāsettha , một bà-la-môn ở Kapilavatthu .Khi Asita tuyên bố rằng Hoàng tử Siddhattha sẽ trở thành Đức Phật, Vappa và bốn vị Bà-la-môn khác, đứng đầu là Kondañña , đã trở thành ẩn sĩ.

+ Tôn giả Assaji - Nhóm 5 anh em Kiều Trần Như cũng là người khai thị cho ngài Xá Lợi Phất

ĐẠI TRƯỞNG LÃO MANTĀNIPUTTA PUṆṆA – cháu ngài Koṇḍañña Ngài thuộc một gia đình Bà-la-môn ở Donavatthu gần Kapilavatthu . Mẹ ngài là Mantānī , chị gái của Aññākondañña . Khi Đức Phật ở Rājagaha , nơi Ngài đã đến sau khi thuyết giảng Kinh Chuyển Pháp Luân , Aññākondañña đã đến Kapilavatthu và truyền giới cho Punna. Sau đó, Kondañña trở về Rājagaha, từ đó, sau khi từ biệt Đức Phật, ngài đã ẩn cư bên bờ sông Chaddantadaha . Nhưng Punna vẫn ở lại Kapilavatthu, chuyên tâm vào việc tu tập của mình, và chẳng bao lâu sau đã trở thành một vị A-la-hán. Ngài đã tập hợp xung quanh mình năm trăm người trong gia tộc, tất cả đều trở thành tu sĩ, và ngài đã dạy họ mười nền tảng của bài thuyết pháp (dasa kathāvatthūni), mà chính ngài đã học được, và họ đã trở thành A-la-hán. 

Những người sống trong thành và gần đó. 

Tôn giả Puṇṇaji – một trong bốn người bạn xuất gia theo Ngài Yasa

Tôn Giả Phú Lâu Na Purana (Puṇṇa Mantāṇiputta) – Thuyết Pháp Đệ Nhất

Tôn Giả Ưu Ba Ly Upali Trì Giới Đệ Nhất : Một trong những đệ tử xuất chúng nhất của Đức Phật. Ngài xuất thân từ một gia đình thợ cạo ở Kapilavatthu và gia nhập vào hàng ngũ các hoàng tử dòng Thích Ca. Khi Anuruddha và các anh em họ xuất gia và xin thọ giới với Đức Phật tại Vườn Anupiyā , Upāli đã đi cùng họ. Họ dâng tặng ngài tất cả trang sức quý giá, nhưng sau khi suy nghĩ kỹ hơn, ngài từ chối và muốn xuất gia cùng họ. Lý do được đưa ra cho sự từ chối này là vì ngài biết dòng Thích Ca rất nóng tính, và sợ rằng thân quyến của các hoàng tử có thể nghi ngờ ngài đã giết hại các chàng trai trẻ để chiếm đoạt tài sản của họ.

Tôn giả Nāgita top 80 trưởng lão đệ tử Phật ( 40 bên trái) : Một vị A-la-hán. Ngài thuộc gia đình Thích Ca ở Kapilavatthu và gia nhập Tăng đoàn sau khi nghe thuyết giảng về Kinh Madhupindika .

Tôn giả Nagasamala ( vị thị giả đầu tiên Đức Phật)  Ông là người  dòng Thích Ca  và gia nhập Tăng đoàn khi Đức  Phật  đến thăm họ hàng của Ngài tại  Kapilavatthu . Trong một thời gian, ông là thị giả thân cận của Đức Phật - ví dụ, khi Đức Phật vi phạm  Kinh Mahāsihanāda  (hay Lomahamsa-pariyāya) (Mi83; MA.i.283; AA.i.163; UdA. 217; J.iv.95).

Tôn giả Lomasakangiya Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh ở Kapilavatthu, trong một gia đình họ Thích-ca. Ngài rất yếu đuối và thân ngài có lông mịn nên được gọi là Lomasakangiya.Khi Anuruddha và một số hoàng tử trẻ Sakya xuất gia, ngài không theo. Rồi Candana, một người bạn cũ thời trước, hỏi về ‘Nhứt dạ hiền giả – Bhaddekaratta’, ngài trả lời không được và đến hỏi đức Phật. Ðức Phật khuyên ngài xuất gia và về xin phép cha mẹ. 

họ Thích Sarakàni (Sakyan) Một người dòng Thích Ca. Khi ngài viên tịch, Đức Phật tuyên bố ngài là một bậc Nhập Lưu, hướng đến giác ngộ. Nhưng nhiều người dòng Thích Ca lại khinh miệt ngài, nói rằng ngài đã thất bại trong việc tu tập và đã sa vào rượu chè. Mahānāma trình bày điều này với Đức Phật, và Ngài nói rằng Sarakāni đã quy y Phật, Pháp và Tăng từ lâu, và sở hữu những phẩm chất giúp ngài tránh khỏi kiếp đọa địa ngục, cùng với các loài súc sinh thấp hèn và cõi ngạ quỷ. Sv375f.

Họ Thích Nandiya ( A Sākiyan ) Một cư sĩ dòng Thích Ca, rõ ràng là khác biệt với những người kể trên. Ông đã đến viếng thăm Đức Phật tại Nigrodhārāma ở Kapilavatthu và đã thảo luận với Ngài về các loại Thánh đệ tử khác nhau, người sống trong sự lười biếng và người sống tinh tấn (Sv397ff.; xem thêm trang 403). Sau đó, khi Đức Phật trở về Sāvatthi để an cư mùa mưa, Nandiya cũng đến đó, tìm việc để làm, và thỉnh thoảng ông đã đến viếng thăm Đức Phật. Vào cuối mùa mưa, khi Đức Phật và các vị tỳ kheo chuẩn bị lên đường du hành, Nandiya đã đến gặp Đức Phật và được Ngài dạy mười một điều kiện dẫn đến sự diệt trừ tội lỗi. Av334ff.

Thích nữ Kàligodhà Một phụ nữ dòng Thích Ca. Bà được tuyên bố là một bậc Dự Lưu (sotāpanna ), và cuộc trò chuyện giữa bà và Đức Phật , người đã đến thăm bà khi bà lưu trú tại Nigrodhārāma ở Kapilavatthu , được ghi lại trong Kinh Kāli (Sv396). Trong kinh, bà được gọi là Godhā; có thể bà thuộc cùng dòng họ với Godha . Bà là mẹ của Bhaddiya Thera, được tuyên bố là vị tỳ kheo xuất thân quý tộc xuất sắc nhất (Thag.v.864; Ai23; ThagA.ii.55).Chú giải Tăng Chi Bộ (AA.i.109) ghi rằng tên bà là Godhā, và vì nước da ngăm đen nên bà được gọi là Kāli. Bà là người cao cấp nhất trong số các cung nữ dòng Sākiyan thời bấy giờ. Dhammapāla gọi bà là āgataphalā, viññātasāsanā. UdA.161.

Tissà Therì ( họ Thích Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) )  Bài kệ sau này là của Tissà, một giới học nữ trải qua nhiều đức Phật, nàng tích lũy các công đức, và trong đời đức Phật hiện tại, nàng được tái sanh ở Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) trong gia đình quý tộc Thích-ca, được tuyển vào nội cung của vị Bồ-tát. Nàng cùng với Mahàpajàpati xuất gia và tu tập thiền quán.

Dhīrā 1 Theri - Sākiyan ở Kapilavatthu Có hai vị Therī có tên này được nhắc đến, cả hai đều thuộc dòng dõi Sākiyan ở Kapilavatthu.Họ là thành viên trong triều đình của Bồ Tát vào thời điểm Ngài trở thành Đức Phật.Họ rời khỏi nhà cùng với Pajāpatī Gotamī, gia nhập Tăng đoàn và trở thành bậc A-la-hán. Thig.6, 7; ThigA.12.

Dhīrā 2 Theri - Sākiyan ở Kapilavatthu

Mittā (v.l. Mettā) Therī Nàng được sinh ra trong gia đình công chúa Sakya (Thích-ca) ở Kapilavatthu, từ bỏ gia đình xuất gia cùng với Mahàpajàpati, rồi sau những năm tháng tu hành cần mẫn, nàng chứng được quả A-la-hán 

Visākhā Therī.(Kalivathu) Bà thuộc hậu cung của Bồ Tát và từ bỏ thế gian cùng với Mahā Pajāpatī Gotamī . Bà được Đức Phật hướng dẫn thiền định và sau đó đắc quả A-la-hán. Một bài kệ do bà đọc để khuyên bảo các bạn đồng tu được ghi chép trong Therīgāthā. Thig.vs.13; ThigA.20.

Sumanā Therī : 1 thiếu nữ dòng Thích Ca

Mettā Therī (Shakyan Kapilavatthu )

Trưởng lão Vanavaccha : Ngài là con trai của Vacchagotta, một bà-la-môn ở Kapilavatthu, và sinh ra trong rừng. Mẹ ngài khao khát được nhìn thấy rừng và đã phải chịu đau đớn khi lang thang ở đó. Tên ngài là Vaccha; nhưng vì lòng yêu rừng, ngài được gọi là Vanavaccha.

Sìvaka (Thera. 3) (Một Sa-di phục vụ cho Vanavaccha) : Cháu trai của Vanavaccha. Khi chị gái của Vanavaccha nghe tin ông đã rời bỏ thế gian và đang sống trong rừng, bà đã gửi con trai mình là Sīvaka đến xin xuất gia với Trưởng lão và hầu hạ ngài.

Devasabha Thera : Trong thời đức Phật hiện tại, ngài tái sanh trong một gia đình hoàng tộc Thích-ca, và được đặt tên là Devasabha. Khi lớn lên ngài khởi lòng tin khi Thế Tôn giải quyết sự tranh chấp giữa dòng họ Thích-ca và dòng họ Koliya, ngài xin quy y ba ngôi báu. K

Uttiya Thera ( dòng Thích Ca ở Kapilavatthu)

Paripunnaka Thera Ngài thuộc dòng họ Thích Ca ở Kapilavatthu, và được gọi như vậy vì sự sung túc và đầy đủ của cải. Tài sản của ngài cho phép ngài được hưởng mọi lúc mọi nơi với thực phẩm một trăm loại tinh túy. Khi nghe Đức Phật sống rất thanh đạm, ngài từ bỏ thế gian, xuất gia và chứng đắc một vị A La Hán.

Usabha Thera ( dòng Thích Ca ở Kapilavatthu) Ngài sinh ra trong một gia đình dòng Thích Ca ở Kapilavatthu. Khi Đức Phật đến thăm gia đình, Usabha thấy được năng lực và trí tuệ của ngài nên đã xuất gia. Nhưng ngài không làm tròn bổn phận tôn giáo, ban ngày sống ngoài xã hội, ban đêm ngủ. Một đêm nọ, ngài mơ thấy mình cạo râu, khoác áo choàng đỏ thắm, cưỡi voi vào kinh thành khất thực. 

Sona-Potirīyaputta (or Setthiputta) Thera. : (hay Setthiputta). Ngài sinh ra ở Kapilavatthu , là con trai của vị zemindar Potirīya (Selissariya), và trở thành thủ lĩnh lực lượng của dòng họ Sākiyan Bhaddiya . Khi Bhaddiya từ trần, Sona đã noi gương ngài và gia nhập Tăng đoàn. Tuy nhiên, ngài lười biếng và không chuyên tâm vào việc thiền định. Đức Phật nhìn thấy điều này từ Ambavana ở Anupiyā và chiếu một tia hào quang, khích lệ ngài. Sona trở nên phấn chấn, và tinh tấn tinh tấn đã trở thành một vị A-la-hán.

Gotama Thera (Sākiyan) Ngài thuộc dòng họ Thích Ca (Sākiyan) và chỉ được biết đến với tên Gotama. Ngài gia nhập Tăng đoàn khi Đức Phật viếng thăm họ hàng của ngài và sau đó đắc quả A-la-hán.

2. Xứ Koliya ( bao gồm dân Shakya Koliya)

+Vua Thiện Giác (Suppabbuddha ) – bố vợ Bồ Tát Tất Đạt Đa  : Một hoàng tử Sākiyan , con trai của Añjana và Yasodharā .Ông có một người anh trai, Dandapāni , và hai chị gái, Māyā và Pajāpatī . Ông có hiềm thù với Đức Phật khi bồ tát bỏ nhà đi xuất gia khiến con gái ông là Da Du Đà La thiếu người chồng , ngoài ra còn vụ Đức Phật đem 1 người con trai của ông đi xuất gia nốt. Ông được Phật tiên đoán là bị đất hút , ông biết Phật không bao giờ nói vọng ngữ, nhưng cũng cố gắng để thay đổi tình thế.

Liên quan đến trưởng lão Sivali

+ Tôn giả Sivali : trưởng lão bị quả báo phải trong bụng mẹ 7 năm , được mệnh danh đệ nhất về tiền tài.

+ PRINCESS Suppavǎsǎ The Koliyan ( mẹ của trưởng lão Sivali) 

+ Cha tôn giả Sivali : tướng quân Livchavi 

+Bhaddà Kapllà Theri :Trong thời đức Phật hiện tại, nàng được sanh vào một gia đình Bà-la-môn dòng họ Kosiya ở Sàgala. Ðược sống trong giàu sang, nàng được gả làm vợ một nhà quý tộc tên là Pippali ở làng Mahàtittha. Khi người chồng xuất gia, nàng giao lại tài sản cho các người bà con để nàng được xuất gia. Nàng sống năm năm tại Titthiyàràma, sau đó nàng được Mahàpajàpati cho thọ đại giới, nhờ triển khai thiền quán, nàng chứng được quả A-la-hán. Biệt tài nhớ đến các đời sống quá khứ 

Thullatissa ( Con trai của dì ruột Đức Phật, Amitā) :  Một vị A-la-hán. Con trai của dì ruột Đức Phật, Amitā. Ngài gia nhập Tăng đoàn và sống trong một khu định cư trong rừng, nhưng ngài tự hào về địa vị của mình và cáu kỉnh, hay bắt bẻ trong hành vi. Có lần ngài đến gặp Đức Phật trong nước mắt vì các bạn đồng tu trêu chọc ngài vì tính nói nhiều (S.ii.282; MA.i.289).

Tôn giả Tissa ( cháu họ hàng Đức Phật ) : có thể trùng với Thullatissa vì đều là con trai của dì ruột Đức Phật và đều đắc A La Hán

Pakkha Thera : Một vị A-la-hán. Ngài là một người dòng Thích Ca (Sākyan) ở Devadaha và được gọi là Sammoda, nhưng thời thơ ấu, ngài bị bệnh thấp khớp (vātaroga) và bị què một thời gian; do đó, ngài được gọi là Pakkha (người què) ngay cả sau khi đã khỏi bệnh. Khi Đức Phật đến thăm họ hàng, ngài xuất gia và sống trong rừng. Một ngày nọ, ngài thấy một con diều bay lên trời mang theo một ít thịt, đầu tiên một con diều, rồi một con diều khác chộp lấy một miếng. Quán chiếu rằng những ham muốn trần tục cũng giống như thịt bị con diều hút lấy, ngài đã phát triển tuệ giác và chứng đắc quả A-la-hán.

Rakkhita Thera Ngài sinh ra trong một gia đình quý tộc Sākyan ở Vedehanigama (? Devadaha) và là một trong năm trăm thanh niên được các thủ lĩnh Sākyan và Koliya cử đi hộ tống Đức Phật, như một lời tri ân vì Ngài đã ngăn chặn được cuộc chiến giữa hai nước. Khi Đức Phật thuyết giảng về Kunāla Jātaka , Rakkhita, nhận ra những nguy hiểm của dục lạc, đã phát triển tuệ giác, và sau này đắc quả A-la-hán.

Lõa thể Seniya (hạnh con chó) - sau quy y Phật chứng A La Hán

Punna Koliyaputta (hành trì hạnh con bò) - sau làm cư sĩ tại gia

thôn trưởng Pàtaliya :Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Koliya, tại thị trấn của dân chúng Koliya tên là Uttara.Rồi thôn trưởng Pàtaliya đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, thôn trưởng Pàtaliya bạch Thế Tôn:

3. Xứ Kasi

- Một trong mười sáu Mahājanapadas (Ai213, v.v.), thủ đô là Bārānasī .

Vào thời Đức Phật , nó đã được sáp nhập vào vương quốc Kosala , và Pasenadi là vua của cả hai quốc gia (Di288; M.ii.111). Tuy nhiên, Mahāvagga (Vin.i.28l) có đề cập đến một Kāsika-rājā (vua của Kāsi?) đã gửi một chiếc áo choàng cho Jīvaka. Buddhaghosa (xem Văn bản Luật ii.195, n.2) nói rằng đây là anh trai của Pasenadi và là con trai cùng cha. Ông có thể là một vị vua phó của Pasenadi. Cha của Pasenadi, Mahākosala , khi gả con gái mình cho Bimbisāra , đã phân cho cô một ngôi làng Kāsi ( Kāsigāma ) làm tiền tắm (J.iv.342; J.ii.403; SA.i.110,120f, v.v.).

Các vị thầy của Bồ tát

5 anh em Kiều Trần Như vừa là thầy , vừa là bạn đồng tu sau đó là đệ tử của Đức Phật . Hồi còn nhỏ chắc chắc Đức Phật có rất nhiều vị thầy ở các lĩnh vực khác trong cung điện Thành Ca Tỳ La Vệ

Alàra Kàlàma : [Nổi tiếng] Tên vị đạo sĩ thái tử Tất Ðạt Ða đến hỏi đạo giải thoát ngay sau khi Ngài rời cung điện đi xuất gia và trở thành nhà tu khổ hạnh. Ðược biết đạo sĩ A La La là một triết gia theo phái Số Luận (Samkhya) và sống gần thành Tỳ Xá Ly (Ba Lị:Vesali), nay là thành phố Besàrh trong quận Muzzaffapur, tiểu bang Bihar, vùng đông bắc Ấn Ðộ.

+Uddaka Ràmaputta : [Nổi tiếng] còn được phiên âm là Úc Đầu Lam Phất, hay Ưu Đà La Ca La Ma Tử. Là một vị tiên nhân nổi tiếng, thành tựu Phi Phi Tưởng Định, đắc Ngũ Thông. Khi đức Phật vượt cung xuất gia từng đến tham học với ông này. Trong kinh Niết Bàn, đức Phật đã cho ông Tu Bạt Đà biết về kết cục của Uất Đầu Lam Phất: bị đọa làm con chồn bay sau khi hưởng hết phước trời.

 

Những vị đệ tử ở đây

+  Cư sĩ Tapussa (1 trong 2 người Cúng dường Vật Thực Đầu Tiên Lên Đức-Phật)  Một thương gia ở Ukkala . Ông và người bạn Bhalluka (Bhalliya), trên đường đến Rājagaha , đã nhìn thấy Đức Phật dưới gốc cây Rājāyatana, vào tuần thứ tám sau khi Đức Phật Thành Đạo. Được một vị thần, vốn là họ hàng của họ, thúc giục, họ dâng lên Đức Phật bánh gạo và mật ong trong một cái bát do Tứ Đại Thiên Vương cung cấp. Họ trở thành những đệ tử tại gia đầu tiên của Đức Phật, và lời nguyện quy y của họ không hề nhắc đến Tăng đoàn (Vin.i.3f; Ai26; UdA.54; Ji80).

Trưởng lão Bhalliya ( người anh là Tapussa,) Theo Chú giải Trưởng Lão Tăng Kệ (i.48f), Tapassu và Bhalluka là hai anh em, con trai của một trưởng đoàn lữ hành ở Pokkharavatī. Một thời gian sau, họ đến viếng thăm Đức Phật tại Vương Xá, nơi Ngài thuyết pháp cho họ; sau đó Tapassu đắc quả Nhập Lưu, còn Bhalluka gia nhập Tăng Đoàn và đắc quả A La Hán

 

Liên quan đến tôn giả Yasa ( gia đình và những người bạn)

Cô bé Puṇṇā & nàng Sujātā (Cúng dường vi diệu) : Sujātā là mẹ của tôn giả Yasa ( Da Xá) .  Con gái của Senānī , một địa chủ của làng Senānī gần Uruvelā . Nàng đã hứa với thần cây đa gần đó rằng nàng sẽ dâng một bữa cơm sữa cho thần nếu nàng sinh được một người con trai. Ước nguyện của nàng đã thành, con trai nàng đã chào đời, và nàng đã sai thị nữ của mình, Punnā, chuẩn bị nơi để dâng lễ vật. Đó là đúng ngày Đức Phật Giác Ngộ, và Punnā, thấy Gotama ngồi dưới gốc cây đa, nghĩ rằng ngài là thần cây hiện diện để nhận lễ vật. Nàng đã báo tin cho Sujātā, người vô cùng vui mừng, đã mang thức ăn trong một chiếc bát vàng và dâng lên Ngài.

Cận sự nữ Suppiyā (Cúng dường thịt đùi) Một nữ cư sĩ ở Benares. Chồng bà là Suppiya, và cả hai đều rất sùng kính Tăng đoàn. Một ngày nọ, khi đến thăm tu viện, Suppiyā thấy một vị sư bị bệnh cần nước dùng thịt. Khi trở về nhà, bà sai một thị giả đi lấy thịt; nhưng khắp Benares không có thịt. Vì vậy, bà dùng dao cắt một miếng thịt từ đùi của mình và đưa cho người hầu để nấu thành súp cho vị sư. Sau đó, bà về phòng và nằm trên giường. Khi Suppiya trở về và phát hiện ra sự việc, ông vô cùng vui mừng, và đến tu viện, mời Đức Phật dùng bữa vào ngày hôm sau. Đức Phật chấp nhận lời mời, và khi đến vào ngày hôm sau cùng với các vị sư của mình, ngài đã yêu cầu gặp Suppiyā. Khi nghe tin bà bị bệnh, ngài mong muốn đưa bà đến gặp ngài. Ngay khi Đức Phật nhìn thấy vết thương của bà đã lành, được bao phủ bởi làn da đẹp, trên đó mọc lên những sợi lông mịn như trên phần còn lại của cơ thể bà.

Tôn giả DA XÁ – Yasa người thanh niên đầu tiên xuất gia theo Phật Trong thời đức Phật hiện tại, ngài sanh trong một gia đình nhân sĩ rất giàu có ở Benares(Ba-la-nại). Ngài được nuôi dưỡng rất tinh tế, và có ba lâu đài hợp với ba mùa. Một đêm, do nhân duyên quá khứ thúc đẩy ngài thấy cảnh bất tịnh của những người hầu cận ngài. Quá xúc động trước cảnh tượng ấy, ngài đi đôi dép vàng, bỏ thành, bỏ nhà và đi lần đến Isipatana. Ngài vừa đi vừa than 'Ôi sầu khổ thay! Ôi nguy hiểm thay!'.Lúc ấy, Thế Tôn đang đi ngoài trời ở Isipatana, thấy Yasa như vậy liền gọi: 'Hãy đến đây, này Yasa! Ở đây, không có sầu khổ, không có nguy hiểm!'. Nghe vậy, ngài rất hoan hỷ, cởi dép để một bên, ngồi xuống bên cạnh Thế Tôn. Bậc Ðạo Sư thứ lớp thuyết giảng cho Yasa về Bốn sự thật. Sau khi nghe giảng xong Yasa trở thành một Phật tử.

 

Câu chuyện về du sĩ Saccaka

TỲ KHƯU SUDINNA, CON TRAI CỦA THƯƠNG NHÂN KALANDA  Câu chuyện bị cám dỗ bởi người vợ

 

Cận sự nữ Suppiyā (Cúng dường thịt đùi)

 

 

Nandiya Về Trời – chuyện phước báu thanh tự lên cõi Dao Lợi

 

Citta ( Tâm) – 1 trong những nam cư sĩ trí tuệ bậc nhất của Đức Phật

Đại Đức Tissa (Đề Xá) Ở Rừng – chủng tử Phật tái lai làm con Phật

Bà-la-môn Ghotamukha (người cúng giảng đường Bà-la-môn Ghotamukhi)

Thanh niên Sanjikaputta

Tôn giả Mahaka

Tôn giả Godatta ( Macchikàsanda, tại Ambàtavana )

Tôn giả Sangamàji

Addhakasi -Therì

Sundàrì - Therì

 

Somamitta Thera (gia đình Bà-la-môn ở Benares)

 

Melajina Thera

Tekicchakārī (°kāni) Thera

+Vimala Thera ( thầy là Somamitta Thera )

Khu vực tu khổ hạnh Đức Phật

Khu vực thành đạo

4. Nước Ma Kiệt Đà

Liên quan đến vua Bình Sa

Vua Bimbisāra (TẦN BÀ SA LA) – vương quốc Ma Kiệt Đà Ngài lên ngôi lúc mười lăm tuổi và trị vì tại Vương Xá (Rājagaha) năm mươi hai năm. Đức Phật hơn Bimbisāra năm tuổi, và mãi mười lăm năm sau khi lên ngôi, Bimbisāra mới được nghe Đức Phật thuyết pháp và được Ngài chuyển hóa. Kinh sách ghi lại (Mhv.ii.25ff.; Dpv.iii.50ff) rằng hai người là bạn thời trẻ nhờ tình bằng hữu giữa cha họ. Cha của Bimbisāra tên là Bhāti (MT.137; Dpv.iii.52); theo các nguồn tài liệu Tây Tạng (Rockhill, op. cit., 16), ông được gọi là Mahāpaduma và mẹ ông là Bimbī.

Hoàng Hậu Videhi [Cận sự nữ]là vợ vua Bình Sa, mẹ của A Xà Thế , kinh điển Nikaya không thấy xuất hiện nhiều .. Bà được biết đến với pháp môn niệm Phật sinh Tây phương Cực lạc ( cõi Phật A Di Đà ) trong Phật giáo Đại thừa

+ Hoàng hậu Khemā  Một vị A la hán, thủ lĩnh của các nữ đệ tử của Đức Phật. Bà sinh ra trong một gia đình quyền quý tại Sāgala ở xứ Madda , và làn da của bà có màu vàng. Bà trở thành hoàng hậu của Vua Bimbisāra . Bà không muốn đến thăm Đức Phật , lúc đó đang ở Veluvana , vì sợ rằng Ngài sẽ nói xấu về sắc đẹp mà bà say mê. Nữ thánh đệ tử trí tuệ của Phật

Hoàng Tử Abhaya ( 1 người con vua Bình Sa) Ngài là con trai của vua Bimbisāra và Padumavatī , một mỹ nhân xứ Ujjeni . Khi lên bảy tuổi, Abhaya được mẹ gửi đến gặp vua và lớn lên cùng các công tử trong triều. Ban đầu, ngài chịu ảnh hưởng của Nigantha Nātaputta , người đã dạy ngài một bài toán khó để thuyết phục "Sa-môn Gotama". Qua lời Đức Phật đáp, hoàng tử nhận ra sự thất bại của Nigantha và sự Giác Ngộ tối thượng của Đức Thế Tôn, và sau đó ngài trở thành đệ tử của Ngài. Sau đó, khi nhà vua băng hà, Abhaya bị xáo trộn tâm trí và đã xuất gia.

Vương tử Jayasena ( 1 người con của vua Bình Sa) Một vị hoàng tử đã từng đến thăm sa di  Aciravata  tại  Veluvana  ở  Rājagaha  và yêu cầu ngài giảng dạy Giáo Pháp. Sa di miễn cưỡng đồng ý, nhưng khi kết thúc bài thuyết giảng, Jayasena tuyên bố rằng ngài không thể đồng ý với điều đó.Khi điều này được báo cáo với Đức Phật, Ngài nói rằng Jayasena, vì đã từ bỏ cuộc sống xa hoa, không thể mong đợi đánh giá cao sự từ bỏ (M.iii.128).Cuộc trò chuyện giữa Jayasena và chú mình là  Bhūmiya Thera  được ghi lại trong  Kinh Bhūmiya . Trong trường hợp này, chúng ta được biết Jayasena rất hài lòng với bài thuyết giảng và đã mời  Bhūmiya  dùng cơm của mình (M.iii.138).Buddhaghosa  (MA.ii.932) nói rằng Jayasena là  con trai riêng của Bimbisāra  (Bimbisārassa putto orako).

Badumavati There - mẹ của Abhaya (Vô Úy) Trong đời đức Phật hiện tại, nàng được sanh là một hoa khôi ở Ujjenì, tên là Badumavati. Vua Bimbisàra ở Magadha nghe tiếng và muốn gặp nàng. Với sự giúp đỡ của vị giáo sĩ của vua, vua được gặp nàng và nàng có thai với vua. Vua bảo khi nào nó lớn thì đưa vào cung. Nàng sinh được một đứa con trai, đặt tên là Abhaya (Vô Úy). Khi được bảy tuổi, nàng gửi con trai đến vua Bimbisàra và vua thương yêu nó và nuôi dưỡng nó với các người con khác của vua.
Abhaya -Therì ( bạn của mẹ hoàng tử Vô Úy) Một Ni sư. Bà xuất thân từ một gia đình ở Ujjeni và là bạn chơi của Abhayamātā (Padumavatī). Khi Abhayamātā gia nhập Tăng đoàn, Abhayā cũng từ bỏ thế gian. Khi bà đang thiền định tại Sītavana, Đức Phật đã phóng ra một tia hào quang để khuyến khích và giúp đỡ bà; sau đó bà đắc quả A-la-hán (ThigA.33-4).

Liên quan đến vua A Xà Thế

+vua A xà thế (Ajātasattu) Ajatashatru được cho là có mối thù tiền kiếp với vua cha Bimbisara . Bị Devadatta lợi dụng và xui tạo phản , đoạt ngôi sau đó gián tiếp giết hại vua Bình Sa. Sau đó A Xà Thế bị quả báo ốm nặng , giống bệnh phong ( cùi) , không 1 thầy thuốc nào chữa được. Ân hận , cảm thấy ăn năn với việc mình đã làm , ông đã chấp nhận lời đề nghị của lương y Kỳ Bà ( 1 người em của ông với 1 người phụ nữ có thân phận thấp kém có thể chính là hoàng hậu vườn xoài ampali ) bái kiến và sám hối trước Đức Phật.

+Bà la môn Vassakāra – viên cận thần của vua A xà thế (Ajātasattu) có công lớn khi đánh bại Vesali

Thần Y Jīvaka Komārabhacca ( Kỳ Bà) - Một thầy thuốc lừng danh. Ông là con trai của Sālavatī , một kỹ nữ ở Rājagaha . (AA. (i.216) nói rằng Abhayarājakumāra là cha của ông). Ngay sau khi sinh, đứa bé được đặt trong một cái giỏ và ném vào một đống rác, từ đó được Abhayaràjakumāra cứu ra. Khi được Abhaya hỏi, mọi người nói "nó còn sống" (jīvati), và do đó đứa bé được gọi là Jīvaka; vì được hoàng tử (kumārena posāpito) nuôi dưỡng, nên được gọi là Komārabhacca. Tuy nhiên, có ý kiến ​​cho rằng Komārabhacca có nghĩa là bậc thầy về khoa học Kaumārabhrtya (phương pháp điều trị trẻ sơ sinh); VT.ii.174; trong Dvy. (506-18) Ngài được gọi là Kumārabhūta.

 

Liên quan đến trưởng lão Xá Lợi Phất

+ Tôn giả Xá Lợi Phất Sariputra –Trí Tuệ Đệ Nhất

+ Mẹ ngài Sariputa ( Rūpasārī) Mẹ của  Sāriputta , người được gọi theo tên bà, tên riêng của ông là Upatissa. (SNA.i.326; DhA.i.73, v.v.; trong các văn bản tiếng Phạn (ví dụ, Dvy.395) Sāriputta được gọi là Sāradvatīputra). Chồng bà là Bà-la-môn  Vanganta  (DhA.ii.84), và bà trở thành mẹ của bảy người con, tất cả đều trở thành A-la-hán -  Sāriputta ,  Upasena ,  Mahācunda ,  Revata Khadiravaniya ,  Cālā ,  Upacālā  và  Sisūpacālā  (DhA.ii.188; SA.iii.172).

+  Upasena Vangantaputta. - Ngài sinh ra ở Nālaka, con trai của Rūpasārī, một vị Bà-la-môn, cha ngài là Vanganta. Ngài là em trai của Sāriputta (UdA.266; DhA.ii.188). Khi đến tuổi trưởng thành, ngài học ba bộ Vệ Đà, và sau khi nghe Đức Phật thuyết giảng, ngài đã gia nhập Tăng đoàn. Khi mới được một tuổi, ngài đã truyền giới cho một vị Tỳ-kheo khác để tăng số lượng thánh nhân, và đi cùng vị Tỳ-kheo này đến hầu hạ Đức Phật. Đức Phật đã khiển trách ngài vì thủ tục vội vàng này (Vin.i.59; Sp.i.194; J.ii.449), và Upasena, muốn được Đức Phật khen ngợi vì chính nguyên nhân của sự khiển trách này, đã thực hành tuệ giác và trở thành một vị A-la-hán. Sau đó, ngài đã áp dụng nhiều dhutangas khác nhau và thuyết phục những người khác làm theo. Trong một thời gian ngắn, ngài đã có một đoàn tùy tùng đông đảo, mỗi thành viên đều quyến rũ theo cách riêng của mình, và Đức Phật tuyên bố Upasena là người quyến rũ nhất trong số những người quyến rũ (samantapāsādikānam) (Ai24).

+ Tôn giả Mahacunda ( em trai ngài Xá Lợi Phất) Các sách dường như đề cập đến hai vị trưởng lão tên là Cunda, vị được biết đến nhiều hơn là Mahā-Cunda và vị kia là Cūla-Cunda. Nhưng những truyền thuyết liên quan đến họ rất mơ hồ đến nỗi không thể phân biệt rõ ràng vị này với vị kia.Tuy nhiên, Cunda-Samanuddesa cũng được đề cập đến , người mà các Chú giải (ví dụ DA.iii.907) đồng nhất với Mahā-Cunda. Ví dụ, Mahā-Cunda được mô tả trong Chú giải Theragāthā (ThagA.i.261; xem thêm DhA.ii.188 và AA.ii.674) là em trai của Sāriputta , người đã gia nhập Tăng đoàn, đạt được quả vị A-la-hán sau nỗ lực gian khổ và vất vả.

Trưởng lão Revata (Ly Bà Đa) - em út ngài Xá Lợi Phất

Tỷ-kheo-ni Càlà Con gái của Surūpasārī và do đó là em gái của Sāriputta .Bà có hai chị gái là Upacālā và Sisūpacālā , cả ba đều từ bỏ thế gian và gia nhập Tăng đoàn khi nghe tin Sāriputta xuất gia.- A La hán
Tỷ-kheo-ni Upacàlà : 1 người chị em gái Xá Lợi Phất xuất gia và đắc A la hán
 + Tỷ-kheo-ni Sisupacàlà  : 1 người chị em gái Xá Lợi Phất xuất gia và đắc A la hán

Bà La Môn Bạn Của Trưởng Lão Xá Lợi Phất – phước báo của đảnh lễ thánh tăng

Tỳ-khưu-ni Bhaddā Kuṇḍalakesā (Nữ đạo sĩ tóc quăn biện tài) Một Therī. Bà là nữ tu sĩ hàng đầu, có trực giác nhanh nhạy, và sinh ra trong gia đình của một người quản lý ngân khố ở Rājagaha. Cùng ngày, một đứa con trai được sinh ra cho giáo sĩ của nhà vua dưới một chòm sao thuận lợi cho những kẻ cướp đường, và do đó được gọi là Sattuka . Bà theo tăng đoàn của Phật sau khi thất bại trước tài biện luận của ngài Xá Lợi Phất.

Tambadāṭhika (Nanh Đồng)- 1 đao phủ cúng cháo sữa cho ngài Xá Lợi Phất được sanh Đâu Suất

Liên quan đến trưởng lão Mục Kiền Liên

Những câu chuyện dính đến ngài Mục Kiền Liên thường liên quan đến thần thông , các ngạ quỷ rồi lên các cung trời gặp thiên chú , các thiên nữ 

Đức Mục Kiền Liên Manda Galỳayana – Thần Thông Đệ Nhất Mahā Moggallāna Thera : Đệ tử chính thứ hai của Đức Phật . Ngài sinh ra ở Kolitagāma gần Rājagaha , cùng ngày với Sāriputta (cả hai đều lớn tuổi hơn Đức Phật), và được gọi là Kolita theo tên làng của ngài. Mẹ của ngài là một người Bà-la-môn tên là Moggalī (Moggallāni), và cha của ngài là người đứng đầu, chủ gia đình của làng. Gia đình của Moggallāna và Sāriputta đã duy trì tình bạn không tan vỡ trong bảy thế hệ, vì vậy những đứa trẻ là bạn của nhau từ thời thơ ấu.

Bà Thanh Đề (mẹ ngài Đại Mục Kiền Liên ) : Được mô tả trong các tác phẩm từ Phật giáo phát triển , bị đọa Địa Ngục do làm nhiều điều ác. Tích Mục Liên cứu mẹ ( ngày lễ Vu lan - Phật giáo Đại Thừa)

Ngạ Quỷ Mình Trăn – Ác nghiệp tiền kiếp của tên trộm lại còn đốt phá hương thất

Ngạ Quỷ Mình Rắn – ác báo của việc đốt phá thảo xá của Độc Giác Phật

Ngạ Petavatthu (Quỷ Đập Đầu) – ác báo cho kẻ ngu hại Độc Giác Phật

Ngạ Quỷ mình người đầu heo và câu chuyện tiền kiếp

Bà Thanh Đề (mẹ ngài Đại Mục Kiền Liên )

+

Liên quan đến nhóm bà la môn thờ lửa ƯU LÂU TẦN LOA CA DIẾP (Uruvilva Kasyapa – Uruvela Kassapa)

Uruvelā. - Một địa điểm trên bờ sông Nerañjarā , gần cây Bồ Đề tại Buddhagayā. Tại đây, sau khi rời khỏi Alāra và Uddaka , Bồ Tát đã thực hành những pháp sám hối khắc nghiệt nhất trong sáu năm. Các bạn đồng hành của ngài là các vị sư Pañcavaggiya , tuy nhiên, họ đã rời bỏ ngài khi ngài giảm bớt sự khắc nghiệt của các pháp tu khổ hạnh (Mi166). Nơi được Bồ Tát chọn để thực hành sám hối được gọi là Senā-nigama .

ƯU LÂU TẦN LOA CA DIẾP (Uruvilva Kasyapa – Uruvela Kassapa) : Một trong ba anh em, dòng họ Tebhātika-Jatilas , sống tại Uruvelā . Ngài sống bên bờ sông Nerañjarā với năm trăm đệ tử. Xa hơn nữa, hai anh trai của ngài là Nadī-Kassapa sống với ba trăm đệ tử và Gayā-Kassapa sống với hai trăm đệ tử.

Tôn giả Nadīkassapa – người anh giữa trong nhóm ba vị đạo sĩ thờ lửa ( top 80 trưởng lão – nhóm phải)
Tôn giả Gayākassapa – người em út trong nhóm ba vị đạo sĩ thờ lửa( top 80 trưởng lão nhóm phải)
Tôn giả Vimala – một trong bốn người bạn xuất gia theo Ngài Yasa

Liên quan đến trưởng lão Đại Ca Diếp

Trưởng Lão Đại Ca Diếp Maha Kasyapa – Đầu Đà ĐệNhất

Tỳ kheo ni BHADDÀ KÀPILÀNÌ (MỸ HẠNH) – người vợ đầy đủ thiện căn trước khi xuất gia của ngài Đại Ca Diếp

Đệ Tử Của Đại Đức Ma Ha Ca Diếp và câu chuyện tiền kiếp khỉ và sáo

Phú hộ Kalavaliya ( Ma Kiệt Đà) – giàu có nhiều của cải nhờ cùng dường ngài Đại Ca Diếp

Liên quan đến ni sư Pháp Thí và trưởng giả Visakha

+Tỳ-khưu-ni Dhammadinnā (Thuyết pháp đệ nhất)

+Hiền giả Visakha –người vấn đạo Thánh ni Dhammadinna

4 vị bị Bò điên húc chết ( do ác nghiệp tiền kiếp)

+Chuyện Về Đức Vua Pukkusāti [Nổi tiếng] (Phất Ca Sa Vương )

+Tambadāṭhika (Nanh Đồng)- 1 đao phủ cúng cháo sữa cho ngài Xá Lợi Phất được sanh Đâu Suất

+Bāhiya Dārucīriya [Top 80 vị trưởng lão] được Phật độ đắc A La Hán ngay ngày cuối cùng của sinh mệnh

+Ông Suppabuddhakuṭṭhi (Thiện Giác Cùi) [Cận sự nam] 

Khu vực Alavi 

Một thị trấn cách Sāvatthi ba mươi do-tuần (SnA.i.220) và có lẽ mười hai do-tuần từ Benares (Xem Watters: ii.61; Fa Hsein, 60, 62). Nó nằm giữa Sāvatthi và Rājagaha . (Đức Phật đi từ Sāvatthi đến Kitāgiri, từ đó đến ālavī, và cuối cùng, đến Rājagaha). Đức Phật, trong nhiều dịp, đã ở lại ālavī tại đền Aggālava gần thị trấn. Vào năm thứ mười sáu sau khi Giác ngộ, Đức Phật đã dành toàn bộ mùa mưa tại ālavī và thuyết giảng giáo lý cho 84.000 người nghe (BuA.3). Vua của ālavī được gọi là ālavaka và cư dân được gọi là ālavaka. Thị trấn này sau đó trở nên nổi tiếng là nơi cư ngụ của ālavaka Yakkha và Hatthaka ālavaka . Ni sư Selā sinh ra tại ālavī và do đó được gọi là Alavikā (ThigA.62-3). Rõ ràng có một cộng đồng tu sĩ đông đảo tại ālavī, một số người dường như chủ yếu bận rộn với việc xây dựng các tịnh xá cho riêng mình (Xem ālavakā).

+ Dạ xoa alavaka

+Hatthaka ở Alavi –[Cận sự nam]  Nam cư sĩ khiêm cung , hiểu giáo pháp thuộc hàng top của Đức Phật   : Là hoàng tử của Alavi , theo tích Dạ Xoa Alavaka

+ Con gái người thợ dệt : [Cận sự nữ](quán niệm đề mục chết) dân Alavi 

 

Các vị thánh tỳ kheo tăng ở đây

 

Các vị thánh tỳ kheo ni khác ở đây

 

Các  tỳ kheo ở đây

Các ác tỳ kheo ở đây

+Maha Kokālika ( Tỳ kheo phe cánh với Devadatta)

Kaṭamorakatissaka ( thuộc nhóm tỳ kheo chia rẽ hội chúng Devadatta_

Các đại thì chủ khác ở đây

Khu vực Saketa

Một thị trấn ở Kosala . Vào thời Đức Phật, nơi đây được coi là một trong sáu thành phố lớn của Ấn Độ, các thành phố khác là Campā , Rājagaha , Sāvatthi , Kosambi và Benares (D.ii.146). Có lẽ đây là kinh đô cũ của Kosala, và được nhắc đến như vậy trong Nandiyamiga Jātaka . J.iii.270; so sánh Mtu.i.348, 349, 350, nơi đây được gọi là kinh đô của Vua Sujāta thuộc dòng dõi Sākiyan. Xem thêm Kumbha Jātaka (J.ii.13), nơi Sāketa được nhắc đến như một trong những nơi mà rượu được du nhập khá sớm sau khi được Sura và Varuna phát hiện ra . Theo Mahānārada Kassapa Jātaka (J.vi.228), đây là nơi sinh của Bijaka , từ rất lâu trước đây. Trong bối cảnh này, nó được gọi là Sāketā. Theo một truyền thống được ghi lại trong Đại sự (Mahāvastu), Sāketa là thành phố mà các hoàng tử dòng Sākiyan bị lưu đày khi họ thành lập Kapilavatthu . EJ Thomas chấp nhận quan điểm này (op. cit., 16f.).

+NAKULAPITU – người cha trong tiền kiếp của Phật 55

+Nakulamatu – người mẹ tiền kiếp của Phật 4[Cận sự nữ] 

Khu vực khác

\
Gia chủ Upali ( từng theo phái lõa thể)
Nigantha Dighatapassi

 

 

Sātimattiya Thera (bị Ma Vương biến giả)
Tissa-kumāra ( Anh trai của Asoka)
Sīlavā Thera ( con trai của Bimbisāra)
Sirimitta Thera
Kappa Thera ( ham dục )
Thượng tọa Sarabhanga ( người nhổ lau)
Sirimanda Thera (Sunsumàragira )
Nehātakamuni Thera ( Nhàlaka – Muni)
Tālaputa Thera ( gia đình kịch sĩ )
Tissa Thera ( Vương Xá - thông thạo bùa chú Vệ Đà )
Jotidāsa Thera
Gotama Thera ( đem tiền cho kỹ nữ)
Uttara - Theras ( thị giả cho ngài Sariputa)
Vanavaccha Thera ( Nhà giàu Vương Xá )
Trưởng lão Jenta
Dhammasava Thera
Pavittha Thera
Sunāga Thera
Jambuka Thera
Subhā Kammāradhītā Con Người Thợ Vàng -Therì
Trưởng lão Sambhūta
Trưởng lão Mahāgavaccha
Cittaka Thera
Gosāla Thera
Ramanīyavihārī Thera
Trưởng lão Ujjaya
Trưởng lão Vimala ( gia đình giàu có ở Rājagaha)
Vacchapāla Thera
Mettaji Thera
Susārada Thera
Vijjayà - Therì

Tôn giả Bhumija (Phù-di)

Tôn giả Abhiya Kaccana ( còn gọi là Sabhiya)
Tôn giả Samiddhi
Du sĩ ngoại đạo Potaliputta
Thợ gốm Bhaggava (TB 140)
Tôn giả Channa (Xiển-đà)
Bà-la-môn Kùtadanta
Singàlaka (Thi-ca-la-việt)
du sĩ Nigrodha
Gia chủ Sandhāna
Trưởng Lão Cullapindapatika Tissa ( khá giống Ratthapàla)
Du sĩ ngoại đạo Suppiya
Thanh niên Brahmadatta
hoàng tử Udàyibhadda ( kế vị vua A Xà Thế)
Tỷ-kheo-ni Somà
Tỷ-kheo-ni Vijayà
Tôn giả Akkosaka Bhāradvāja
Bà-la-môn Asurindaka Bhàradvàja
Bà-la-môn Bilangika Bhàradvàja
Bà-la-môn Aggika Bhàradvàja
Bà-la-môn Kasi Bhàradvàja
Tôn giả Susìma
Tôn giả Lakkhana
Sona, con một gia chủ Ràjagaha (S.iii,48)
Tôn giả Surādha ( em trai tôn giả Radha )
Du sĩ Moliya Sìvaka
du sĩ Jambukhàdaka
du sĩ Sàmandaka
Tôn giả Talaputa ( nhà vũ kịch sư )
thôn trưởng Manicùlaka
Thánh cư sĩ Dīghāvu (con trai của Jotika-gahapati )
cư sĩ Sirivaddha
Gia chủ Mànadinna
Cittā.-A Therī
Punnamāsa thera ( Con 1 vị điền chủ)
Nandaka Thera ( em trai của Bharata Thera)
Trưởng lão Bhāradvāja ( dòng Bhāradvājagotta )
Kanhadinna Thera ( con trai của Bhāradvāja dòng Bhāradvājagotta)
Sīvaka Thera ( một gia đình Bà-la-môn ở Rājagaha)
Dhaniya Thera (trước là thợ gốm ở Rājagaha)
Cūlaka Thera
Visàkha (Con Của Pancàlì) Thera
Sambula Kaccāna Thera
Sona Kosiya - Thera. 41
Girimānanda Thera ( con 1 vị giáo sĩ vua Bình Sa)
Subhūta Thera (xứ Magadha)

 

 

 

 

 

 

Trưởng lão Vacchagotta – thánh đệ tử nổi tiếng với nhiều bài kinh (Nikaya)
Du sĩ Sakuludayi ở tại Moranivapa (Khổng Tước Lâm)
Du sĩ ngoại đạo Dìghanakha (Trường Trảo Aggivessana)
Bà-la-môn Dhananjani
Nữ Bà-la-môn Dhananjani (Ða-na-xa-ni)
Sa di Cunda (TB 104 Cunda-Samanuddesa )
Bà-la-môn Gopaka Moggallana
Sa-di Aciravata (Tân Học Sa-môn Aggivessana)
,Tỷ-kheo Gulissani (hành động thô tháo )
Nữ Thánh đệ tử Uttarā
Cô kỹ nữ Sirimā ( nữ cư sĩ Uttarā )
Tỳ-khưu-ni Subhā (Người cho con mắt đẹp)
Mẹ Của Trưởng Lão Kumārakassapa (Ca Diếp Đồng Tử)- câu chuyện tiền kiếp bầy hươu
Tỳ kheo ni Singalakamatu – nữ đệ tử có lòng tin mạnh mẽ
Đồ Tể Cunda – cận tử nghiệp sát sinh
Bá Hộ Macchariya (Khan Nang) -chuyện ông bá hộ chẳng bố thí cho ai bao giờ
Tỳ Nữ Puṇṇa – chuyện không ngủ được
Đại phú hộ Jatila ( Ma Kiệt Đà ) – Đại phú người giữ kho trở thành tỳ kheo thánh đệ tử
Công Tử Uggasena – nghệ thuật rào xiếc trên không
Đại phú Jotika ( nước Ma Kiệt Đà) – Con đường từ đại phú thành tỳ kheo thánh đệ tử
Bà la môn Kasībhāradvāja – Tu hành là cày ruộng công đức ( KINH KASĪBHĀRADVĀJA )
Thợ săn Kukkuṭamitta ( Kê Hữu ) – thợ săn lấy vợ đắc quả dự lưu
Người Hàng Hoa Sumana (Hảo Ý) – vượt qua sợ hãi bị vua phạt, đem hoa cúng Phật
Trưởng Lão Mahāpaṇṭhaka - ( Đại Bàn Đặc)
Trưởng Lão Tiểu Bần Đặc ( Cūḷapanthaka) – 4 tháng không thuộc nổi 1 bài kệ
Tỳ Khưu Sunita ( người gánh phân )
Ni trưởng Sigālakamātā – nữ đệ tử có đức tin bậc nhất
Trưởng lão Candābha và tiền kiếp làm thợ rừng xây bảo tháp Xá lợi Đức Phật Kassapa
Trưởng Lão Sundarasamudda – 40 cách quyến rũ đàn ông của nữ nhân
Du sĩ lõa thể Upaka

 

VOI NÀLÀGIRI
Thần rắn Mucilinda – lấy thân che cho Phật khi ngài mới chứng chánh đẳng giác

Liên quan đến ẩn sĩ bà la môn Bavari : vị thầy trước khi theo Phật của 2 tôn giả Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên ... Đồng thời cũng là vị thầy  trước của 16 vị a la hán

Ẩn sĩ Bāvarī - vị thầy bà la môn của 16 trưởng lão
ĐẠI TRƯỞNG LÃO MOGHARĀJA

5. Nước Kosala

Liên quan đến hoàng cung của vua Pasenadi

Mahākosala : Cha của vua Pasenadi , có khá nhiều con trai gái xuất gia theo Phật , cả tướng quốc cũ cũng đắc alahan

Liên quan đến triều đình nước Kosala

+ Tướng quân Banhuda

+ Phu nhân Mallia ( vợ tướng quân)

+

Liên quan đến Tỳ Lưu Ly

+ Tỳ Lưu Ly

+ viên quan cháu trai của banhuda

Liên quan đến gia đình ông Cấp Cô Độc

Sudatta ( Tu Đạt) [Nổi tiếng] hay còn gọi là Cấp Cô Độc Anathapindika .  Là đại thí chủ với tăng đoàn Đức Phật , cúng Tịnh Xá Kỳ Viên … Ông có khoảng 2 người con trai :1 theo chú ( bác) Tu Bồ Đề xuất gia , 1 là công tử Kala ; 3 cô con gái .Anāthapindika married a lady called Puññalakkhanā (J.ii.410; J.iii.435, she was the sister of the setthi of Rājagaha. SA.i.240); he had a son Kāla and three daughters, Mahā-Subhaddā, Cūla-Subhaddā and Sumanā.  

+Nàng Sumanādevī  [Cận sự nữ]( Tố Tâm nương tử – con gái út Cấp Cô Độc)- con gái mà xưng chị với cha

+Nàng Cūḷasubhaddā [Cận sự nữ]– cô con gái của ông Cấp Cô Độc và câu chuyện làm dâu      Xem tiếp ở Đại Phật Sử

+Công Tử Kāla [Cận sự nam] Con trai của Anāthapiṇḍika . - Vì chàng không tỏ ra có chút đạo đức nào, cha chàng, cảm thấy rất buồn rầu, đã long trọng hứa sẽ cho chàng một ngàn nếu chàng giữ ngày chay tịnh. Kāla thắng được tiền, và ngày hôm sau, Đức Phật hứa sẽ cho chàng một ngàn nếu chàng chịu lắng nghe Đức Phật thuyết pháp và học thuộc một bài kệ. Chàng lắng nghe Đức Phật thuyết pháp, nhưng do ý muốn của Ngài, chàng không thể nhớ nổi một bài kệ nào cho đến khi bài pháp kết thúc. Sau đó, chàng đắc quả Dự Lưu và theo Đức Phật cùng chư Tăng về nhà cha mình. Tại đó, trước sự chứng kiến ​​của mọi người, Anāthapiṇḍika đã đưa tiền cho Kāla, nhưng chàng từ chối nhận, và Đức Phật đã giải thích sự việc. DhA.iii.189ff

+Puṇṇikā (Cô gái nô lệ đội nước) [Cận sự nữ] là 1 hầu gái trong gia đình ông Cấp Cô Độc

+Tỳ khưu Dasaka  :xuất thân là nô lệ, ông ta là con của một nữ nô lệ trong đại gia đình trưởng giả Cấp Cô Độc. Khi tịnh xá Kỳ Viên đi vào sinh hoạt, công việc ở đấy rất bộn bề, trưởng giả Cấp Cô Độc đã sai thanh niên nô lệ Dasaka hằng ngày đến đấy để trông coi vườn tược kiêm cả việc gác cổng. Dasaka bẩm chất tháo vát, lanh lợi, chịu khó nên ai cũng mến yêu và tin cậy. 

+Thiên Nữ sống trong nhà Cấp Cô Độc : do có tà kiến với tăng đoàn của Đức Phật nên bị ông Cấp Cô Độc đuổi đi. Cuối cùng ăn năn sám hối , và cũng chuộc lỗi giúp ông Cấp Cô Độc thu lại được khối tài sản lớn

+ Sujàta - con dâu ông Cấp Cô Độc . Em gái út của Visākhā . Nàng là con gái của Dhanañjayasetthi và được gả cho con trai của Anāthapiṇḍika . Nàng rất kiêu ngạo và bướng bỉnh. Một hôm, khi Đức Phật đến thăm nhà Anāthapiṇḍika, nàng đang la mắng người hầu. Đức Phật dừng lời giảng, hỏi chuyện gì ồn ào, sai người gọi nàng đến và giải thích cho nàng về bảy loại vợ trên đời. Nàng nghe pháp và thay đổi cách sống (A.iv.91f.; J.ii.347f). Bà được nghe Đức Phật thuyết giảng về Sujāta Jātaka (số 269).

Liên quan đến gia đình bà Visakha

+ Bà Visakha

+ Phú hộ Mendaka – ông nội của nữ cư sĩ thánh đệ tử Visakha ( quê ở Anga)

+ Các người con

+ Cháu trai

+ Bố chồng bà Visakha

Liên quan đến xứ Saketa

Các khu vực khác thuộc Kosala

6. Xứ Anga

Campā . - Một thành phố ở Ấn Độ nằm bên dòng sông cùng tên; đây là thủ phủ của Anga và nổi tiếng với hồ nước tuyệt đẹp, Gaggarā-pokkharanī (qv), được Hoàng hậu Gaggarā khai quật. Bên bờ hồ có một rừng cây Campaka, nổi tiếng với hương thơm của những bông hoa trắng tuyệt đẹp, và vào thời Đức Phật, các du tăng thường trú ngụ tại đó. Chính Đức Phật đã dừng chân tại đó nhiều lần (Vin.i.312; Si195; A.iv.59, 168; v.151, 189). Người ta cũng nói rằng Sāriputta (A.iv.59) và Vangīsa (Si195) cũng đã từng lưu trú tại đây. Kinh Đại Bát Niết Bàn (D.ii.147) đề cập đến Campā là một trong sáu thành phố quan trọng của Ấn Độ, được cho là do Mahāgovinda (D.ii.235) xây dựng. Thành phố này nằm cách Mithilā sáu mươi do tuần (J.iv.32). Vào thời Đức Phật, người dân Campā trung thành với Bimbisāra, vua xứ Magadha, và Bimbisāra đã ban một thái ấp ở Campā cho Bà-la-môn Sonadanda (Di111). Campā rõ ràng là một trung tâm thương mại quan trọng, và chúng ta được biết rằng các thương gia đã đi từ đó đến Suvannabhūmi để buôn bán (Ví dụ, J.vi.539). Nhiều khả năng chính những người Ấn Độ định cư tại Campā đã đặt tên cho một trong những khu định cư quan trọng nhất của họ ở Đông Dương theo tên thị trấn cổ nổi tiếng này. Tên cổ của Campā có lẽ là Mālini hoặc Mālina.( Campasya tu puri Campā, yā Mālinyabhavat purā; Mbh.xii.5, 6, 7; Matsyapurāna 48, 97, v.v.; Law, AGI6, n.2).

Chương thứ chín của Mahā Vagga thuộc Luật tạng (Vin.i.312ff; xem thêm Vin.iī.307) chứa đựng một số quy định quan trọng do Đức Phật đặt ra tại Campā liên quan đến tính hợp lệ và các hành vi chính thức khác của Tăng đoàn.

Campā được nhắc đến là nơi sinh của Sona-Kolivisa, Jambugāmika, Nandaka và Bharata, và trong số những người sống ở đó có Bāhuna, Vajjiyamāhita và Thullanandā cùng các bạn đồng hành của bà.

Các kinh Sonadanda, Dasuttara, Kandaraka và Kārandava Sutta đã được giảng ở đó.

Du sĩ Kandaraka Một nhà khổ hạnh du hành đã đến thăm Đức Phật ở Campā .Xem Kandaraka Sutta
cư sĩ Pessa (con trai người huấn luyện voi) Du sĩ Kandaraka cùng cư sĩ Pessa con trai người huấn luyện voi, đến yết kiến Phật..Xem Kandaraka Sutta
Gia chủ Potaliya ( Anguttarapa)
 + bện tóc Keniya  Một Jatila. Ông sống ở  āpana , và khi Đức Phật lưu lại đó cùng một ngàn ba trăm năm mươi vị tỳ kheo, Keniya đã đến thăm Đức Phật, mang theo nhiều loại đồ uống khác nhau, và Ngài đã dâng cho Ngài và các vị tỳ kheo. Ngày hôm sau, ông mời cả hội chúng đến dùng bữa và tỏ lòng hiếu khách nồng hậu. Chính nhờ những món đồ uống do Keniya dâng cúng mà Đức Phật đã đặt ra một giới luật về việc các tỳ kheo được phép dùng đồ uống nào và không được phép dùng đồ uống nào (Vin.i.245f).Theo Sutta Nipāta (tr.104; M.ii.146f; xem thêm ThagA.ii.47), chính nhờ sự chuẩn bị chu đáo của Keniya cho bữa cơm đãi Đức Phật và Tăng đoàn mà vị Bà-la-môn Sela, bạn và cố vấn của Keniya, đã khám phá ra sự hiện diện của Đức Phật trong āpana. Kết quả là Sela và ba trăm đệ tử của ông được quy y và thọ giới.
 
Bà-la-môn Sonadanda Một Bà-la-môn giàu có ở  Campā , rất uyên bác về Vệ-đà; ông sống trong một lãnh địa hoàng gia, được vua  Bimbisāra ban cho ông làm thái ấp hoàng gia . Khi Đức Phật ở Campā, trên bờ hồ  Gaggarā , Sonadanda đã đến thăm ông bất chấp sự phản đối của bạn bè và đồng nghiệp. Cuộc trò chuyện của họ được ghi lại trong  Sonadanda Sutta . Vào cuối bài giảng, Sonadanda bày tỏ lòng cảm kích của mình đối với Đức Phật và giáo lý của Ngài, và mời Ngài và các tăng sĩ của Ngài đến dùng bữa. Khi kết thúc bữa ăn, Sonadanda cầu xin Đức Phật tha thứ cho ông nếu trước mặt các Bà-la-môn, ông không cúi chào Đức Phật một cách khiêm nhường, mà chỉ đơn giản là đảnh lễ Ngài.
Jambugāmika (Jambugāmiya) Thera
Bharata Thera ( một gia chủ ở Campā)

 

7. Bạt Kỳ Vesali 

 

Liên quan đến hoàng hậu kỹ nữ Ampabali

+Tỳ Khưu Vajīputta – Vị Tỳ khưu ấy là Hoàng tử xứ Vajjī, đã từ bỏ lầu son, điện ngọc đi xuất gia. Một hôm khắp kinh thành Vesalī treo cờ xí trang trí kinh đô rực rỡ, mừng đại hội. Có 7707 vị vua cùng triều thần các xứ và cả Tứ Đại Thiên Vương đến dự, cuộc lễ diễn ra suốt đêm ngày. Hôm ấy là đêm rằm, nhằm lúc sen nở, bầu trời đầy trăng sao, vị nầy đi kinh hành liên tiếp, bỗng nghe khúc khải ca từ xa vọng đến, chạnh lòng Tăng sĩ, nên đã nói lên như vậy

+Tỳ-khưu-ni Ambapālī (Hoàng hậu kỹ nữ) : [Top trưởng lão ni]  được biết đến là 1 kỹ nữ xinh đẹp của xứ Vesali ( có rất nhiều quý tộc trong và ngoài nước yêu thích bà). Còn gọi là kỹ nữ vườn xoài. Là tình nhân của vua Bình Sa, sau này lại có mối tình ngang trái với A Xà Thế. Cuối cùng bà xuất gia làm tỳ kheo ni , là người hộ độ cho tăng đoàn của Phật. 1 số tích cho rằng bà chính là mẹ của thần y Javaka ( Kỳ Bà).

+Trưởng lão Vimala- Kondanna ( con của Ambapàli và vua Bimbisàra) Con trai của Ambapālī và Bimbisāra. Tên ban đầu của ngài là Vimala, nhưng sau này được gọi là Vimalakondañña. Khi Đức Phật đến Vesāli, Vimala vô cùng cảm kích trước uy nghi của ngài và gia nhập Tăng đoàn, không lâu sau đó ngài đạt được quả vị A-la-hán.

+ Ni sư Ampabali

+ Thần y Jivaka

8. Vamsa Kosambi

Liên quan đến vua Udena và hoàng cung

+ Vua Udena

Vua Udena : [Nổi tiếng] vị vua khá lòng tính và ban đầu keo kiệt … trong truyện có ít nhất 3 bà vợ ( hoàng hậu và hoàng phi)

+Hoàng hậu Sāmāvatī hiền đức [Cận sự nữ]

+pháp sư thị nữ Khujjuttarā lưng gù [Cận sự nữ]

+Màgandiyà – [Cừu nhân] thứ hậu vua Udena người đàn bà thù ghét Phật vì từ chối mình

+Phú hộ Ghosaka ( người xây chùa Ghositārāma cúng Phật) [Nổi tiếng]7 lần thoát chết và 1 bước lên Phú Hộ

+TRƯỞNG LÃO BAKKULA – Đệ nhất hạnh vô bệnh

.+ Câu chuyện về Thái tử Boddhi – con vua Udena

Các thành đệ tử tỳ kheo ở đây

 

Những người khác ở kosambi

Đại đức Piṇḍobhāradvāja - vị bị Phật trách quở vì sử dụng thần thông lấy bát

Phú hộ Ghosaka ( người xây chùa Ghositārāma cúng Phật)
TRƯỞNG LÃO BAKKULA – Đệ nhất hạnh vô bệnh
Thái tử Boddhi – con vua Udena
Vua Udena ( hay Udayna) tại Kosambì
Hoàng hậu Sāmāvatī ( vợ vua Udena)
Pháp sư thị nữ Khujjuttarā lưng gù
Voi chúa Pālileyyaka
Du sĩ Sandaka ( trú ở hang Pilakka )
Du sĩ Mandissa (LB 7 đệ tử của Dàrupattika)
Du sĩ Jāliya (LB 7 đệ tử của Dàrupattika)
Dārupattaka (LB 7 Dàrupattika)
Thôn trưởng ASIBANDHAKAPUTTA
Trưởng lão Khemaka
Tôn giả Kàmabhù
Sàmà - Therì (1)
Sàmà Khác -Therì
Trưởng lão Cūla-Gavaccha

 

+ Hoàng Hậu

+ Hoàng tử Bodhi ( Bồ Đề)

Liên quan đến tỳ kheo nhóm lục sư

9. Malla 

+ Bà la môn Dona : Người phân chia Xá lợi Phật

10. Xứ Kuru

11. Avanti

Liên quan đến tôn giả Ca Chiên Diên

+ Tôn giả Ca Chiên Diên

12. Sir Lanca

 

.

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
6133
Bài viết
784
Nhân vật
45
Hình ảnh

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications