Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Kinh Trường Bộ 006 Kinh Ma-ha-li (Mahāli sutta)
<p>Vào một thời kia, đức Phật và các Tỳ-kheo ngụ tại nước Tỳ-xá-ly (Vesali), nơi giảng-đường Trùng-Các, rừng Đại-Lâm. Trong số những người đến yết-kiến đức Phật lúc bấy giờ, có Mahàli, người xứ Licchavi, trình-bày sự thắc-mắc của người bạn tu-tập thiền-định, thấy được các thiên-sắc, nhưng chẳng nghe được các thiên-âm. Mahàli hỏi đức Phật, các thiên-âm có thật không? Đức Phật bảo, các thiên-âm có thật và nhơn đó, Ngài giảng về sự đắc thiên-nhãn khi tu thiền nhứt-hướng, còn người tu thiền nhị-hướng mới đắc được cả hai thiên-nhãn-thông và thiên-nhĩ thông. Sau đó, Ngài còn giảng thêm về Bát-Chánh-Đạo, con đường tám ngành, đưa đến sự chứng-ngộ các pháp còn cao-thượng và thù-thắng hơn.</p>
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:152

Các tên gọi khác

Vào một thời kia, đức Phật và các Tỳ-kheo ngụ tại nước Tỳ-xá-ly (Vesali), nơi giảng-đường Trùng-Các, rừng Đại-Lâm. Trong số những người đến yết-kiến đức Phật lúc bấy giờ, có Mahàli, người xứ Licchavi, trình-bày sự thắc-mắc của người bạn tu-tập thiền-định, thấy được các thiên-sắc, nhưng chẳng nghe được các thiên-âm. Mahàli hỏi đức Phật, các thiên-âm có thật không? Đức Phật bảo, các thiên-âm có thật và nhơn đó, Ngài giảng về sự đắc thiên-nhãn khi tu thiền nhứt-hướng, còn người tu thiền nhị-hướng mới đắc được cả hai thiên-nhãn-thông và thiên-nhĩ thông. Sau đó, Ngài còn giảng thêm về Bát-Chánh-Đạo, con đường tám ngành, đưa đến sự chứng-ngộ các pháp còn cao-thượng và thù-thắng hơn.

General Information

Ngày khởi tạo : 2023-10-27 07:05:28

Edit time : 11/22/2025 21:02:55 - Số lần chỉnh sửa : 3

Danh sách : Liên quan
Kinh Trường Bộ 6 :

1469.016-06-Truong-Bo-01-Kinh-Mahali

Duyên khởi:đức Phật và các Tỳ-kheo ngụ tại nước Tỳ-xá-ly (Vesali), nơi giảng-đường Trùng-Các, rừng Đại-Lâm

Người giảng: Đức Phật . Có đại đức Nàgita( thị giả) , Sa-di Sìha

Người nghe :Mahàli ( Otthadda người Licchavi), [Sunakkhatta, dòng họ Licchavi được nhắc đến ]

Kinh Trường Bộ 006 Kinh Ma-ha-li (Mahāli sutta)

 

06. Kinh Ma Ha Li

(Mahàli Sutta)


1. Như vậy tôi nghe. Một thời đức Thế Tôn trú tại Vesali (Tỳ-xá-ly) ở giảng đường Trùng Các, rừng Ðại Lâm. Lúc bấy giờ, một số đông sứ giả Bà-la-môn nước Kosala (Câu-tất-la) và nước Magadha (Ma-kiệt-đà), đang ở tại Vesali vì một vài công việc. Những vị sứ giả ấy được nghe như sau: “Này các Tôn giả, Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ dòng họ Thích-ca hiện nay đang trú tại Vesali, ở giảng đường Trùng Các, rừng Ðại Lâm. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Sa-môn Gotama: “Ngài là bậc Thế Tôn, A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Ngài đã tự chứng ngộ thế giới này với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, với các chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, tự chứng ngộ rồi hiển thị cho mọi loài được biết. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa có văn, trình bày phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh”. Nếu được yết kiến một vị A-la-hán như vậy thì rất quý”.

2. Những vị sứ giả Bà-la-môn ở Kosala và ở Magadha ấy đi đến giảng đường tại rừng Ðại Lâm. Lúc bấy giờ, đại đức Nàgita là thị giả đức Thế Tôn. Những vị sứ giả Bà-la-môn ở Kosala và ở Magadha ấy đi đến chỗ đại đức Nàgita ở và thưa:

– Tôn giả Nàgita, hiện nay Tôn giả Gotama ở tại đâu, chúng tôi muốn yết kiến Tôn giả Gotama.

– Các Hiền giả, nay không phải thời yết kiến đức Thế Tôn. Ðức Thế Tôn đang chỉ tịnh. Những sứ giả Bà-la-môn ở Kosala và Magadha liền ngồi xuống tại một bên và nói: “Sau khi được yết kiến Tôn giả Gotama, chúng tôi mới đi”.

3. Otthadda (Môi thỏ) người Licchavi cùng với một số đông dân chúng Licchavi cũng đi đến Trùng Các giảng đường, rừng Ðại Lâm gặp đại đức Nàgita, đảnh lễ vị này rồi đứng một bên. Otthadda người Licchavi thưa với đại đức Nàgita:

– Hiện nay đức Thế Tôn, A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác ở tại đâu, chúng con muốn yết kiến đức Thế Tôn, A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.

– Màhàli, nay không phải thời yết kiến đức Thế Tôn, Ðức Thế Tôn đang chỉ tịnh.

Otthadda người Licchavi liền ngồi xuống một bên tại chỗ ấy và nói:

– Sau khi được yết kiến đức Thế Tôn, A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác con mới đi.

4. Khi ấy Sa-di Sìha đến đại đức Nàgita, đảnh lễ đại đức và đứng một bên. Sau khi đứng một bên, Sa-di Sìha nói với đại đức Nàgita:

– Bạch Ðại đức Kassapa (Ca-diếp) một số đông sứ giả Bà-La-môn ở Kosala và Magadha đã đến đây để yết kiến đức Thế Tôn; Otthada người Licchavi cũng đến đây với số đông dân chúng Licchavi để yết kiến đức Thế Tôn. Ðại đức Kassapa, lành thay, nếu những vị này được yết kiến đức Thế Tôn.

– Vậy Sìha hãy thưa với đức Thế Tôn.

– Thưa vâng, bạch Ðại đức!

Sa-di Sìha vâng theo lời dạy của đại đức Nàgita, đến tại chỗ đức Thế Tôn, đảnh lễ Ngài rồi đứng một bên. Sa-di Sìha sau khi đứng một bên liền bạch đức Thế Tôn:

– Bạch đức Thế Tôn, một số đông sứ giả Bà-la-môn ở Kosala và Magadha đến đây để yết kiến đức Thế Tôn. Otthadda, người Licchavi cùng một số đông dân chúng Licchavi đã đến đây để yết kiến đức Thế Tôn. Lành thay nếu những vị này được yết kiến đức Thế Tôn!

– Nay Sìha, hãy dọn chỗ ngồi trong bóng mát, trước mặt ngôi tịnh xá.

– Thưa vâng, bạch Thế Tôn!

Sa-di Sìha vâng theo lời dạy đức Thế Tôn, sắp đặt một chỗ ngồi trong bóng mát trước mặt ngôi tịnh xá, và đức Thế Tôn đi ra khỏi tịnh xá và ngồi trên chỗ ngồi đã soạn sẵn trong bóng mát, trước mặt ngôi tịnh xá.

5. Rồi các sứ giả Bà-la-môn ở Kosala và Magadha đến tại chỗ đức Phật, nói lên những lời chúc tụng thân hữu và xã giao với Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Otthadda người Licchavi cùng với một số lớn dân Licchavi cũng đến tại chỗ đức Phật, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Otthadda người Licchavi thưa với Thế Tôn:

– Bạch Ðại đức, hai ba ngày về trước, Sunakkhatta, dòng họ Licchavi đến chỗ con ở và nói với con: “Này Mahàli, từ khi tôi sống gần đức Phật, không lâu quá ba năm, tôi được thấy những thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi nhưng không được nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi”. Bạch Thế Tôn, những thiên âm mà Sunakkhatta dòng họ Licchavi không nghe, những thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, không hiểu những thiên âm ấy có thật hay không có thật?

– Này Mahàli những thiên âm mà Sunakkhatta dòng họ Licchavi không nghe, những thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, những thiên âm ấy có thật, không phải không có.

6. – Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, những thiên âm mà Sunakkhatta, dòng họ Licchavi không nghe, những thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, những thiên âm ấy có thật, không phải là không có.

– Này Mahàli, có Tỷ-kheo tu định nhất hướng, hướng về phía Ðông với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nhưng không với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Vì vị này tu định nhứt hướng, hướng về phía Ðông với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nhưng không với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nên vị này thấy được về phía Ðông các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nhưng không nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Vì sao vậy? Này Mahàli vì Tỷ-kheo này trong khi tu định nhứt hướng, hướng về phía Ðông, chỉ với mục đích thấy các thiên sắc, mỹ diệu, thích thú, phấn khởi nhưng không với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi.

7. Lại nữa, này Mahàli, có vị Tỷ-kheo tu định nhứt hướng, hướng về phía Nam… về phía Tây… về phía Bắc… phía Trên, Dưới, Ngang, với mục đích thấy các thiên sắc, mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nhưng không với mục đích nghe các thiên âm, mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Vị này tu định nhứt hướng, hướng về phía Trên, Dưới, Ngang, với mục đích thấy các thiên sắc, mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nhưng không với mục đích nghe các thiên âm, mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nên vị này thấy được về phía Trên, Dưới, Ngang, các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nhưng không nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Vì sao vậy? Này Mahàli, vì Tỷ-kheo này trong khi tu định nhứt hướng, hướng về phía Trên, Dưới, Ngang, chỉ với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi nhưng không với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi.

8. Này Mahàli, có vị Tỷ-kheo tu định nhất hướng, hướng về phía Ðông với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi nhưng không với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Vì vị này tu định nhất hướng, hướng về phía Ðông với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nhưng không với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nên vị này nghe được về phía Ðông các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Vì sao vậy? Này Mahàli, vì vị Tỷ-kheo này trong khi tu định nhứt hướng, hướng về phía Ðông, chỉ với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi nhưng không với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi.

9. Lại nữa, này Mahàli, có Tỷ-kheo tu định nhứt hướng, hướng về phía Nam… hướng về phía Tây… hướng về phía Bắc… phía Trên, Dưới, Ngang với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú phấn khởi. Vì vị này tu định nhứt hướng, hướng về phía Trên, Dưới, Ngang với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nhưng không với mục đích thấy các thiên sắc, mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nên vị này nghe được, phía Trên, Dưới, Ngang, các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, nhưng không thấy được các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Vì sao vậy? Này Mahàli, vì Tỷ-kheo này trong khi tu định nhứt hướng, hướng về phía Trên, Dưới, Ngang chỉ với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi nhưng không với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi.

10. Này Mahàli, có Tỷ-kheo tu định nhị hướng, hướng về phía Ðông với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi và với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Vì vị tu định nhị hướng, hướng về phía Ðông với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi và với mục đích nghe các thiên âm, mỹ diệu, thích thú, phấn khởi nên vị này hướng về phía Ðông thấy được các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi và nghe được các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Vì sao vậy? Này Mahàli, vì Tỷ-kheo này trong khi tu định nhị hướng, hướng về phía Ðông với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi và với mục đích nghe các thiên âm, mỹ diệu, thích thú, phấn khởi.

11. Này Mahàli, có vị Tỷ-kheo tu định nhị hướng, hướng về phía Nam… hướng Tây… hướng về phía Bắc… về phía Trên, Dưới, Ngang, với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi và với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Vì vị này tu định nhị hướng, hướng về phía Trên, Dưới, Ngang với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi và với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi nên vị này hướng về phía Trên, Dưới, Ngang, thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi và nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Vì cớ sao? Này Mahàli, vì Tỷ-kheo này trong khi tu định nhị hướng, hướng về phía Trên, Dưới, Ngang với mục đích thấy các thiên sắc mỹ diệu, thích thú, phấn khởi, và với mục đích nghe các thiên âm mỹ diệu, thích thú, phấn khởi. Này Mahàli, do nhân này, do duyên này, những thiên âm ấy có thật, không phải là không có.

12. – Bạch Thế Tôn, như vậy có phải muốn chứng được các pháp định thiền định ấy mà các Tỷ-kheo sống đời phạm hạnh, dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn?

– Này Mahàli, không phải muốn chứng được các pháp thiền định ấy mà các Tỷ-kheo sống đời phạm hạnh, dưới sự chỉ dạy của Ta. Này Mahàli, có những pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn. Vì muốn chứng được những pháp ấy, các vị Tỷ-kheo sống đời phạm hạnh, dưới sự chỉ dạy của Ta.

13. – Bạch Thế Tôn, những pháp ấy, cao thượng hơn, thù thắng hơn là gì mà các vị Tỷ-kheo vì muốn chứng được những pháp ấy sống đời phạm hạnh, dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn?

– Này Mahàli, ở đây Tỷ-kheo đoạn dứt ba kiết sử, thành bậc Dự lưu, không đọa ác thú, chắc chắn đạt quả Bồ-đề. Này Mahàli, pháp này cao thượng và thù thắng hơn, vì muốn chứng được pháp này, các Tỷ-kheo sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Ta.

Lại nữa, này Mahàli, Tỷ-kheo đoạn dứt ba kiết sử làm nhẹ bớt tham, sân, si, thành bậc Nhứt lai, còn phải sanh lại trong đời này một lần nữa trước khi diệt hẳn khổ đau. Này Mahàli, pháp này cao thượng hơn và thù thắng hơn. Vì muốn chứng được pháp này, các Tỷ-kheo sống phạm hạnh, dưới sự chỉ dạy của Ta.

Lại nữa, này Mahàli, vị Tỷ-kheo đã đoạn dứt năm hạ phần kiết sử, thành vị hóa sanh, nhập Niết-bàn tại đây, không còn phải trở lại thế giới này nữa. Này Mahàli, pháp này cao thượng và thù thắng hơn. Vì muốn chứng được pháp này, các Tỷ-kheo sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Ta.

Này Mahàli, những pháp cao thượng và thù thắng này, vì muốn chứng được pháp ấy, các Tỷ-kheo sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Ta.

14. – Bạch Thế Tôn, có con đường nào, có đạo lộ nào đưa đến sự chứng ngộ những pháp ấy?

– Này Mahàli, có con đường, có đạo lộ đưa đến sự chứng ngộ những pháp ấy.

– Bạch Thế Tôn, có con đường nào, có đạo lộ nào đưa đến sự chứng ngộ những pháp ấy?

– Ðó là con đường Thánh có tám ngành: Chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Này Mahàli, con đường này, đạo lộ này đưa đến sự chứng ngộ những pháp ấy.

15. Này Mahàli, một thời Ta ở Kosambi vườn Ghositàràma. Lúc bấy giờ có hai người xuất gia. Mandissa một vị du sĩ và Jàliya đệ tử của Dàrupattika, đến tại chỗ Ta ở, nói lên những lời chúc tụng thân hữu và xã giao với Ta rồi đứng một bên. Sau khi đứng một bên, hai vị xuất gia nói với Ta như sau:

– Này Hiền giả, mạng căn và thân thể là một hay là khác?

– Này Hiền giả, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ nói.

– Vâng, Hiền giả!

Hai vị xuất gia trả lời Ta như thế và Ta nói như sau:

16. – Này Hiền giả, ở đây Như Lai sanh ra đời, vị A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác … (tương tự như kinh “Sa-môn quả”, đoạn kinh 41-82) … Này Hiền giả, như vậy vị Tỷ-kheo thành tựu giới hạnh… chứng và an trú Sơ thiền. Này Hiền giả, khi Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, vị ấy có sẵn sàng đề cập đến vấn đề “Mạng căn và thân thể là một hay khác” không?

Này Hiền giả, Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, vị ấy sẵn sàng đề cập đến vấn đề “Mạng căn và thân thể là một hay là khác”.

Này Hiền giả, tuy Ta biết như vậy, nhưng Ta không nói: “Mạng căn và thân thể là một hay là khác”.

17. Chứng và an trú đệ nhị thiền… đệ tam thiền… đệ tứ thiền. Này Hiền giả, khi Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, vị ấy có sẵn sàng đề cập đến vấn đề “Mạng căn và thân thể là một hay khác” không?

Này Hiền giả, Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy vị ấy sẵn sàng đề cập đến vấn đề “Mạng căn và thân thể là một hay là khác”.

Này Hiền giả, tuy Ta biết như vậy, thấy như vậy, nhưng Ta không nói “Mạng căn và thân thể là một hay là khác”.

18. Vị Tỷ-kheo ấy hướng tâm, dẫn tâm đến tri kiến. Này Hiền giả, khi vị Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, vị ấy có sẵn sàng đề cập đến vấn đề: “Mạng căn và thân thể là một hay là khác” không?

Này Hiền giả, vị Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, vị ấy sẵn sàng đề cập đến vấn đề: “Mạng căn và thân thể là một hay là khác”.

Này Hiền giả, tuy Ta biết như vậy, thấy như vậy, nhưng Ta không nói “Mạng căn và thân thể là một hay là khác”.

19. Vị ấy biết: “Sau đời này sẽ không có đời khác nữa”. Này Hiền giả, khi Tỷ-kheo biết như vậy, thấy như vậy, vị ấy có sẵn sàng đề cập đến vấn đề “Mạng căn và thân thể là một hay là khác” không?

Này Hiền giả, vị Tỷ-kheo biết như vậy, vị ấy sẵn sàng đề cập đến vấn đề “Mạng căn và thân thể là một hay là khác”. Này Hiền giả, tuy Ta biết như vậy, thấy như vậy, nhưng Ta không nói “Mạng căn và thân thể là một hay là khác”.

Ðức Thế Tôn thuyết như vậy. Otthadda người Licchavi hoan hỷ tín họ lời Thế Tôn dạy.


Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt

.

Giáo Án Trường Bộ Kinh

Kinh Ma Ha Lê (Mahàli Sutta)

Xuất Xứ:

Đức Phật đã thuyết giảng Pháp Thoại này cho một số đông sứ giả Bà La Môn ở nước KOSALA và nước MAGADHA, cùng với OTTHADDA MAHÀLI và một số dân chúng thuộc dòng họ LICCHAVI, tại giảng đường Trùng Các, rừng Đại Lâm, thành VESÀLI.

Duyên Khởi:

Do được nghe đồn đãi rất nhiều về đức Thế Tôn, nên một số đông sứ giả Bà La Môn ở nước KOSALA và nước MAGADHA với những công việc còn đang bận rộn tại thành VESÀLI, cũng như OTTHADDA MAHÀLI cùng với một số vị thuộc dòng họ LICCHAVI rất mong muốn được yết kiến đức Phật và nghe pháp.

Chánh Kinh:

MAHÀLI vấn hỏi đức Thế Tôn về nguyên nhân nào SUNAKKHATTA không chứng đắc được Thiên Nhĩ Thông

Do Nhân nào và Duyên nào, SUNAKKHATTA người thuộc dòng họ LICCHAVI, khi ở gần bên đức Phật tu tập và chứng đắc được Thiên Nhãn Thông, thấy được những thiên sắc mỹ diệu, làm cho thích thú và phấn khởi. Nhưng tại sao lại không thể chứng đắc được Thiên Nhĩ Thông, để được nghe những thiên âm mỹ diệu như thật có, để làm cho thích thú và phấn khởi.

Đức Phật giải thích cho MAHÀLI

  • Với tác ý tu tập nhứt hướng (một trong những hướng Đông, Tây, Nam, Bắc, trên, dưới, ngang). Với mục đích chỉ đắc chứng Thiên Nhãn Thông để thấy được những thiên sắc mỹ diệu, thích thú và phấn khởi, nhưng không có tác ý hướng về mục đích tu tập chứng đắc Thiên Nhĩ Thông; do vậy, không thể nghe được những thiên âm mỹ diệu thù thắng, để làm cho thích thú và phấn khởi (như trường hợp của SUNAKKHATTA).
  • Với tác ý tu tập nhứt hướng nhưng với mục đích chứng đắc Thiên Nhĩ Thông, để được nghe những thiên âm mỹ diệu, làm cho thích thú và phấn khởi.
  • Với tác ý tu tập nhị hướng, nghĩa là với hai mục đích chứng đắc Thiên Nhãn Thông và Thiên Nhĩ Thông; do vậy, mới thấy được những thiên sắc mỹ diệu và được nghe luôn những thiên âm mỹ diệu thù thắng, để làm cho thích thú và phấn khởi.

Tuy nhiên, đức Phật không mong muốn các vị tỳ khưu chỉ lo tu tập với sự chứng đắc Thiền Định để có được những sự việc trên.

Đức Phật chỉ dạy tu hành BÁT CHÁNH ĐẠO để chứng đắc ĐẠO QUẢ và  giải thoát

  1. Do muốn chứng đắc được những pháp cao thượng và thù thắng là “Đạo Quả” giải thoát, một vị tỳ khưu đã sống đời Phạm Hạnh, dưới sự chỉ dạy của đức Thế Tôn, và tu hành Bát Chánh Đạo đặng diệt trừ 10 Kiết Sử (SAMYOJANA – trói buộc):
  • Chánh Kiến
  • Chánh Tư Duy
  • Chánh Ngữ
  • Chánh Nghiệp
  • Chánh Mạng
  • Chánh Tinh Tấn
  • Chánh Niệm
  • Chánh Định
  1. Với Bát Chánh Đạo, một vị tỳ khưu sống đời Phạm Hạnh và tu tập chứng đắc tầng Thánh thứ nhất là SƠ ĐẠO và SƠ QUẢ (thành bậc Dự Lưu, Tư Đà Hườn, Thất Lai), đoạn trừ được ba hạ phần Kiết Sử là Thân Kiến, Hoài Nghi, và Giới Cấm Thủ, không còn bị đọa vào Tứ Ác Thú, chắc chắn chứng quả vị giải thoát.
  2. Tiếp tục tu tập, một vị tỳ khưu đã đoạn diệt ba hạ phần Kiết Sử đầu tiên, lại nỗ lực tu tập Bát Chánh Đạo, sẽ làm giảm nhẹ hai hạ phần Kiết Sử là Tham thô thiển và Sân thô thiển, chứng đắc tầng Thánh thứ hai là NHỊ ĐẠO và NHỊ QUẢ (thành bậc Tu Đà Hàm, Nhất Lai).
  3. Tiếp tục tu tập Bát Chánh Đạo, vị tỳ khưu ấy đoạn tuyệt hai hạ phần Kiết Sử còn lại là Tham vi tế và Sân vi tế, chứng đắc tầng Thánh thứ ba là TAM ĐẠO và TAM QUẢ (thành bậc A Na Hàm, Bất Lai). Khi còn ở Nhân Loại, chưa được chứng đắc quả vị A La Hán, và khi thân hoại mạng chung, thì được tục sinh về cõi Ngũ Tịnh Cư Thiên Sắc Giới (thành vị Hóa Sanh) và giải thoát Níp Bàn tại nơi đấy.
  4. Tiếp tục tu tập Bát Chánh Đạo, vị tỳ khưu ấy đoạn trừ năm thượng phần Kiết Sử còn lại (Ái Sắc Giới, Ái Vô Sắc Giới, Ngã Mạn, Phóng Dật, và Vô Minh), diệt trừ các Lậu Hoặc (Tứ Lậu gồm có Dục Lậu, Hữu Lậu, Kiến Lậu, và Vô Minh Lậu), giải thoát và giải thoát tri kiến, chứng đắc tầng Thánh thứ tư là TỨ ĐẠO và TỨ QUẢ (thành bậc A La Hán, Vô Sinh).

Đức Phật bác bỏ những suy niệm về mạng căn và thân thế vì không đem lại  lợi ích và không thiết thực

Khi hai người xuất gia có tên gọi là MANDISSA, một vị du sĩ, và JALIYA, đệ tử của DÀRUPATTIKA, đã đi đến khu vườn GHOSIRÀRÀMA, tại thành phố KOSAMBI, vấn hỏi đức Phật về “mạng căn và thân thể” là một hay là khác. Đức Phật cho biết rằng, chỉ có những người chưa có chứng đạt đến Quả Vị rốt ráo (chỉ có chứng và đắc Tứ Thiền), mới ưa thích đề cập đến vấn đề này, còn đối với đức Phật, cho dù Ngài rõ biết vấn đề này, nhưng Ngài không muốn đề cập đến vì vô ích và không thiết thực.

Kết Luận:

OTTHADA MAHÀLI, người thuộc dòng họ LICCHAVI, đã hoan hỷ tín thọ lời dạy của đức Thế Tôn.

*Các bài trích trong cuốn Giáo Án Trường Bộ Kinh của Tỳ Khưu PASÀDO Sán Nhiên. Nguồn Vietheravada.

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
6133
Bài viết
786
Nhân vật
45
Hình ảnh

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications