Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Cuộc đời Đức Phật Thích Ca TC095A01 : G - Hạ thứ 14 tại Jetavana (-576) Nữ cư sĩ Visàkhà cúng dường tinh xá Đông Viên
Người đến tinh xá Jetavana nghe pháp càng ngày càng đông. Trong số những đệ tử mới có nữ cư sĩ Visàkhà, vừa mới 20 tuổi, được xem là đại thí chủ không kém gì ông Sudattà Anàthapindika. Thấy số khất sĩ tại tinh xá Jetavana quá đông đảo, bà phát tâm cúng dường khu vườn rộng rãi xinh tươi của bà ở phía đông thủ đô Sàvatthi để làm thêm một căn cứ tu học khác cho các vị khất sĩ. Khu đất này cũng đẹp không thua gì Jetavana nhưng diện tích hẹp hơn. Với sự điều động của đại đức Moggallàna và sự góp sức của các bạn, bà Visàkhà đã xây cất được nhiều tăng xá và thiền đường. Một giảng đường lớn được dựng lên ngay trung tâm khu vườn. Khi tinh xá mới được hoàn thành, đại đức Sàriputta đề nghị đặt tên là tinh xá Đông Viên(Pubbàràma, Purvaràma) và giảng đường lớn ở trung tâm là giảng đường Lộc Mẫu(Migàramatas pasada). “Lộc Mẫu” là biệt danh của bà Visàkhà.
Tìm kiếm nhanh
student dp

ID:5002

Các tên gọi khác

Người đến tinh xá Jetavana nghe pháp càng ngày càng đông. Trong số những đệ tử mới có nữ cư sĩ Visàkhà, vừa mới 20 tuổi, được xem là đại thí chủ không kém gì ông Sudattà Anàthapindika. Thấy số khất sĩ tại tinh xá Jetavana quá đông đảo, bà phát tâm cúng dường khu vườn rộng rãi xinh tươi của bà ở phía đông thủ đô Sàvatthi để làm thêm một căn cứ tu học khác cho các vị khất sĩ. Khu đất này cũng đẹp không thua gì Jetavana nhưng diện tích hẹp hơn. Với sự điều động của đại đức Moggallàna và sự góp sức của các bạn, bà Visàkhà đã xây cất được nhiều tăng xá và thiền đường. Một giảng đường lớn được dựng lên ngay trung tâm khu vườn. Khi tinh xá mới được hoàn thành, đại đức Sàriputta đề nghị đặt tên là tinh xá Đông Viên(Pubbàràma, Purvaràma) và giảng đường lớn ở trung tâm là giảng đường Lộc Mẫu(Migàramatas pasada). “Lộc Mẫu” là biệt danh của bà Visàkhà.

General Information

Danh sách : Liên quan
:
Cuộc đời Đức Phật Thích Ca TC095A01 : G - Hạ thứ 14 tại Jetavana (-576) Nữ cư sĩ Visàkhà cúng dường tinh xá Đông Viên

9- Hạ thứ 14 tại Jetavana (năm -576)

 

Nữ cư sĩ Visàkhà cúng dường tinh xá Đông Viên[1]

 

Người đến tinh xá Jetavana nghe pháp càng ngày càng đông. Trong số những đệ tử mới có nữ cư sĩ Visàkhà, vừa mới 20 tuổi, được xem là đại thí chủ không kém gì ông Sudattà Anàthapindika. Thấy số khất sĩ tại tinh xá Jetavana quá đông đảo, bà phát tâm cúng dường khu vườn rộng rãi xinh tươi của bà ở phía đông thủ đô Sàvatthi để làm thêm một căn cứ tu học khác cho các vị khất sĩ. Khu đất này cũng đẹp không thua gì Jetavana nhưng diện tích hẹp hơn. Với sự điều động của đại đức Moggallàna và sự góp sức của các bạn, bà Visàkhà đã xây cất được nhiều tăng xá và thiền đường. Một giảng đường lớn được dựng lên ngay trung tâm khu vườn. Khi tinh xá mới được hoàn thành, đại đức Sàriputta đề nghị đặt tên là tinh xá Đông Viên(Pubbàràma, Purvaràma) và giảng đường lớn ở trung tâm là giảng đường Lộc Mẫu(Migàramatas pasada). “Lộc Mẫu” là biệt danh của bà Visàkhà.

Nữ cư sĩ Visàkhà[2]sinh trưởng tại thành phố Bhaddiya của xứ Anga. Xứ Anga nằm trên bờ sông Gangà, sát ranh giới phía đông xứ Vajji và xứ Magadha. Bà là con gái của nhà triệu phú Dhananjaya, mẹ bà là Sumana Devi, ông nội bà là nhà triệu phú Ram, tên thật là Mendaka[3], mà bà hết sức thương mến.

Năm Visàkhà lên 10 tuổi, đức Phật có dịp đến viếng thành phố Bhaddiya để độ ông Bà-la-môn tên Sela. Được biết đức Phật đang ngụ tại lâm viên Jatiyavana, ông Ram bảo cháu nội :

Này Visàkhà, hôm nay là ngày vui của cháu và ông nội. Vậy cháu hãy sửa soạn đi với ông nội đến viếng đức Phật và nghe pháp.

Cô bé Visàkhà vui vẻ vâng lời. Khi đến nơi, cô đảnh lễ đức Phật rồi cung kính ngồi qua một bên, tư cách rất là phong nhã lễ độ. Sau khi nghe Phật thuyết pháp, ông nội cô và cô đều đắc quả Tu-đà-hoàn (Sotàpatti).

Lúc bấy giờ vua Pasenadi xứ Kosala và vua Bimbisàra xứ Magadha vốn là thông gia với nhau: bà Videhi, em vua Pasenadi, là hoàng hậu xứ Magadha, và bà Mallikà, chị vua Bimbisàra, là hoàng hậu xứ Kosala. Một hôm vua Pasenadi xứ Kosala đến gặp vua Bimbisàra xứ Magadha, nói :

Thưa Đại vương, xứ Magadha có năm nhân tài lỗi lạc và giàu có là Jotiya, Jatila, Ram, Punnaka, và Kakavakiya. Tôi chỉ xin được một trong năm người đó đến định cư luôn tại xứ Kosala.

Sau cuộc thảo luận nội bộ, vua Bimbisàra đồng ý cho ông Ram và cả gia đình ông đến định cư tại Kosala. Khi phái đoàn vua Pasenadi và gia đình ông Ram với con trai là Dhananjaya cắm trại nghỉ đêm tại một lâm viên xinh đẹp cách Sàvatthi 60 dặm về phía nam, ông Dhananjaya nói với vua :

Thưa Đại vương, trong thủ đô Sàvatthi chắc đông đảo dân cư lắm, mà gia nhân của chúng tôi lại rất đông người. Vậy, nếu được Đại vương chấp thuận, chúng tôi xin được định cư ngay tại đây.

Vua Pasenadi đồng ý cho gia đình ông Ram định cư tại thành phố Sàketa, hiện nay là Ayodhya, nằm trên bờ sông Ghaghara, một phụ lưu của sông Gangà.

Lúc bấy giờ ở Sàvatthi có ông triệu phú tên Migàra, có người con trai tên Punnavaddhana vừa đến tuổi lập gia đình. Ông bà Migàra hỏi con muốn chọn vợ như thế nào. Punnavaddhana đáp :

Có cô nào có đầy đủ năm vẻ đẹp của người phụ nữ thì con mới ưng.

Năm vẻ đẹp của người phụ nữ là Tóc, Môi, Răng, Da và Tươi Trẻ. Ông bà Migàra liền mời tám ông Bà-la-môn đến nhà dùng cơm, rồi nhờ họ đi tìm dùm người con gái nào có đầy đủ năm vẻ đẹp để xin cưới cho Punnavaddhana. Khi chuyện đã thành sẽ được trọng thưởng.

Kinh sách ghi rằng cô Visàkhà có sức mạnh như đàn ông và rất mỹ miều duyên dáng. Tóc nàng tựa như đuôi chim công, khi xỏa ra dài tới mắt cá chân rồi cuộn trở lên. Môi nàng tự nhiên đỏ hồng tươi mát. Răng trắng như ngà, khít khao đều đặn và sáng ngời như hai hàng ngọc. Nước da mịn màng như cánh hoa sen vàng vừa mới nở. Cho đến lúc già và có đông con, Visàkhà vẫn còn hình dáng đẹp đẽ của thời son trẻ. Visàkhà lại có trí tuệ hơn người, sáng suốt trong việc thế gian cũng như trong phạm vi đạo đức.

Năm mười sáu tuổi, Visàkhà đi với đám tỳ nữ ra bờ sông để dự lễ Tao Ngộ. Theo phong tục địa phương thì vào ngày lễ này nam thanh nữ tú đi dạo chơi nơi bờ sông. Khi một thanh niên trông thấy một thiếu nữ đẹp ý mình đi ngang qua thì bước đến tặng nàng một vòng hoa đeo cổ biểu lộ ý mình muốn chọn nàng làm vợ. Thình lình một đám mưa to đổ xuống. Người đi đường đều bỏ chạy tìm nơi tạm trú. Visàkhà vẫn khoan thai bước đi tìm nhà đụt mưa. Có vài vị Bà-la-môn đi đường trông thấy lấy làm ngạc nhiên, hỏi :

Sao cô không chạy mau vào cho khỏi ướt mình ?

Dạ, tôi có thể chạy mau lắm chứ, nhưng tôi không muốn làm như vậy.

Tại sao vậy ?

Dạ, ví như có một vị vua kia đang mặc sắc phục triều đình, bỗng nhiên xăn áo quần lên, hối hả chạy vào cung điện thì ắt không đúng tư cách. Ví như một thớt tượng của vua đường bệ oai nghiêm, mình mang đầy trang sức mà không dõng dạc lần bước lại đâm đầu bỏ chạy ngoài đường thì cũng là một cảnh tượng trái mắt. Như những nhà sư trang nghiêm đáng kính không nên ôm y bát chạy ngoài đường. Cũng thế, người phụ nữ chạy ngoài đường như đàn ông mất hết nề nếp đoan trang phong nhã.

Các vị Bà-la-môn lấy làm hoan hỉ nghĩ rằng cô Visàkhà sẽ là người vợ lý tưởng cho con trai ông bà triệu phú Migàra ờ Sàvatthi vì cô có đủ năm tướng đẹp của người phụ nữ. Các vị Bà-la-môn bèn nhân danh cậu Punnavaddhana, con ông bà triệu phú Migàra, tặng cô Visàkhà một vòng hoa bằng vàng. Sau đó vài hôm, một lễ cưới trọng thể được tổ chức với sự hiện diện của vua Pasenadi. Ông bà triệu phú Migàra, từ thủ đô Sàvatthi đến thành phố Sàketa xin cưới cô Visàkhà cho con trai là Punnavaddhana. Ngoài của hồi môn xứng đáng và những món trang sức quý giá, ông Dhananjaya, cha cô, còn ban cho cô lời giáo huấn trước khi về nhà chồng như sau[4]:

1- Không nên nói xấu chồng và cha mẹ chồng với người ngoài. Cũng không nên đem chuyện xấu bên nhà chồng thuật lại cho người ngoài. (Nguyên văn : Không nên đem lửa trong nhà ra đường).

2- Không nên lập lại những lời tường thuật hay những câu chuyện của người khác nói xấu bên chồng. (Nguyên văn : Không nên đem lửa ngoài đường vào nhà).

3- Đồ trong nhà chỉ nên cho những người nào mượn rồi trả lại.

4- Không nên cho những người mượn đồ mà không trả lại.

5- Phải giúp đỡ thân bằng quyến thuộc nghèo khó, dù họ trả lại được hay không.

6- Phải ngồi đúng chỗ thích nghi. Khi thấy cha mẹ chồng đến phải đứng dậy.

7- Trước khi ăn cơm phải coi có dọn đầy đủ món ăn cho cha mẹ chồng và chồng chưa. Cũng phải coi chừng người làm trong nhà có được ăn uống đầy đủ không.

8- Trước khi đi ngủ phải quan sát nhà cửa, ghế bàn có được thu dọn ngăn nắp chưa. Cửa đóng then cài cẩn thận. Xem coi những người giúp việc trong nhà có làm đủ bổn phận của họ chưa, và cha mẹ chồng đã đi ngủ chưa. Thế thường người nội trợ phải thức khuya dậy sớm và, trừ khi đau ốm, không nên ngủ ngày.

9- Phải xem chồng và cha mẹ chồng như lửa: Mỗi khi có việc với cha mẹ chồng hay chồng phải hết sức thận trọng như khi dùng lửa.

10- Cha mẹ chồng và chồng phải được tôn kính như những vị trời trong nhà (sassudeva).

Cha chồng bà là một đệ tử trung kiên của giáo phái Nigantha (còn gọi là Jaina). Một hôm ông thỉnh về nhà rất đông các tu sĩ lõa thể. Khi các vị ấy đến, bà Visàkhà được gọi ra đảnh lễ các vị được gọi là A-la-hán đó. Thoạt nghe đến tiếng A-la-hán, bà vui vẻ bước ra. Nhưng khi thấy những tu sĩ lõa lồ thì bà quày quả trở vào, không đến đảnh lễ. Các đạo sĩ Nigantha tức giận, bắt lỗi cha chồng bà sao lại đem vào nhà mình một tín nữ của đức Phật. Họ yêu cầu ông đuổi bà ra khỏi nhà tức khắc. Ông triệu phú, vì kiên nể gia đình ông Ram, phải khuyên giải hết lời họ mới nguôi giận.

Một hôm, người cha chồng đang ngồi ăn món cháo sữa rất ngon trong cái chén bằng vàng. Ngay lúc ấy có một vị khất sĩ đến trước cửa nhà khất thực. Bà Visàkhà liền đứng tránh qua một bên để cha chồng trông thấy nhà sư. Tuy đã thấy nhưng ông vẫn làm ngơ, tiếp tục ăn như thường. Thấy vậy, bà Visàkhà cung kính nói với vị khất sĩ :

Bạch thầy, xin thầy hoan hỉ bước sang nhà khác. Cha chồng tôi đang dùng món ăn không tốt .

Nhà triệu phú hiểu lầm bà có ý hổn láo nói xấu mình, lấy làm tức giận, truyền gia nhân đuổi bà ra khỏi nhà. Nhưng tất cả tôi tớ trong nhà đều hết lòng quý trọng bà nên không ai dám động đến bà. Bà Visàkhà lễ phép trình bày :

Thưa cha, con thấy con không có lỗi gì đến đỗi phải bị cha đuổi khỏi nhà. Sau đám cưới, khi con sắp rời nhà cha mẹ con qua đây, cha con có mời tám người trong thân tộc bên chồng và gởi gắm con cho các vị ấy. Cha con nói "Nếu con gái tôi có phạm điều gì lỗi lầm, xin các vị hãy dò xét cặn kẽ". Vậy xin cha hãy mời các vị ấy đến để xét xử xem con có lỗi hay không.

Nhà triệu phú đồng ý, cho mời tám vị thân nhân kia lại, phân trần :

Lúc tôi đang ngồi ăn cháo sữa trong một cái chén bằng vàng thì con dâu tôi nói rằng tôi ăn đồ không sạch. Vậy các anh em hãy vạch ra cho nó thấy lỗi và đuổi nó ra khỏi nhà này.

Bà Visàkhà giải thích :

Dạ thưa quý bác, quý chú, sự việc xảy ra không đúng hẳn như vậy. Lúc cha chồng con đang dùng cháo thì có một vị khất sĩ đến trước nhà khất thực. Cha chồng con thấy mà làm ngơ. Nghĩ rằng cha chồng con không muốn làm điều phước thiện nên con nói “Bạch thầy, xin thầy hoan hỉ bước sang nhà khác. Cha chồng tôi đang dùng món ăn không tốt”.

Mọi người nhìn nhận bà Visàkhà không có lỗi, chỉ có ý nói xuôi cho vị khất sĩ bước sang nhà khác. Cha chồng bà thấy vậy cũng bỏ qua. Sau đó bà tìm cách khuyên cha chồng đến Jetavana nghe Phật thuyết pháp để biết qua giáo lý cao thượng của ngài. Nhưng ông nhất định không chịu đi. Bà Visàkhà nói :

Thưa cha, nếu cha ngại việc đi đến Jetavana thì con xin phép cha được thỉnh Phật về nhà thọ trai một lần để cha có dịp nghe Giáo Pháp của ngài.

Ông đồng ý. Khi đức Phật đến nhà thọ trai và thuyết pháp thì ông Migàra, cha chồng bà, ngồi trong buồng lắng nghe. Nghe xong ông đắc quả Tu-đà-hoàn. Ông rất vui mừng và cám ơn cô dâu quý đã dẫn ông vào con đường giải thoát thật sự. Ông nói:

Này Visàkhà, con dâu quý của cha, nhờ con mà cuộc đời còn lại của cha từ nay bước qua một khúc quanh tốt đẹp. Cha quý con lắm, từ nay cha sẽ xem con như một bà mẹ. Hôm nào thuận tiện con hãy đưa cha đến Jetavana để xin quy y Tam Bảo.

Thưa cha, xin cha chớ quá lời. Con chỉ cố gắng làm tròn bổn phận của con mà thôi.

Từ đó về sau, bà Visàkhà có biệt danh là “Lộc Mẫu” (Migàra màtu), có nghĩa là mẹ của Migàra (Lộc, con nai). Đến lúc bà sinh được con trai đầu lòng, đức Phật được thỉnh đến nhà thọ trai và làm lễ quán đảnh (đặt tên) cho cháu bé. Bà đặt tên cho con bà là Migàra để mọi người khỏi thắc mắc về biệt danh "Lộc Mẫu" của bà. Nhơn dịp này bà mẹ chồng của bà được nghe Phật thuyết pháp và đắc quả Tu-đà-hoàn. Gia đình nhà chồng bà Visàkhà từ nay trở thành một gia đình Phật tử đầy an vui hạnh phúc. Bà Visàkhà để bát chư tăng hằng ngày tại nhà. Buổi chiều bà thường đi với một bà bạn thân tên Suppiyà đến Jetavana nghe pháp và xem quý vị khất sĩ có cần dùng vật chi không.

Đầu mùa hạ năm nay bà đã cúng dường tinh xá Đông Viên, ở phía đông thủ đô Sàvatthi, với giảng đường Lộc Mẫu, để các vị khất sĩ nhập hạ có đủ chỗ ở. Tinh xá này do đại đức Moggallàna chỉ huy xây cất trong vòng 9 tháng.

Đến ngày tự tứ mãn hạ, bà lại đến trước Phật nêu tám điều thỉnh nguyện như sau[5]:

1- Dâng y đến chư tăng trong mùa nhập hạ cho đến suốt đời bà.

2- Để bát những vị sư mới đến thành Sàvatthi.

3- Để bát những vị sư sắp rời thành Sàvatthi.

4- Dâng thực phẩm đến những vị sư đau ốm.

5- Dâng thực phẩm đến những vị chăm sóc các sư đau ốm.

6- Dâng thuốc men đến những vị sư đau ốm.

7- Dâng lúa mạch đến chư tăng ni.

8- Dâng y tắm đến các Tỳ kheo ni.

Đức Phật hoan hỉ chấp thuận. Về sau chính đức Phật đã nhập hạ sáu lần tại tinh xá Đông Viên (Pubbàràma).

Trong nhiều thời pháp, đức Phật đã khuyên dạy hàng phụ nữ như sau : 

Tích cực hoạt động.

Nhã nhặn hiền hòa.

Luôn luôn dịu dàng chìu chuộng chồng dù chồng không đem lại tất cả hạnh phúc.

Không khi nào dùng lời bất cẩn, nghịch ý, thiếu lễ độ, làm chồng nổi giận.

Tôn trọng tất cả những người được chồng kính nể.

Khéo léo, lanh lẹ, thức khuya dậy sớm.

Tận tâm săn sóc sức khỏe của chồng trong khi chồng làm việc cực nhọc.

Muốn những điều chồng muốn và cố làm cho được.

Người phụ nữ làm được những điều trên đây sẽ tái sanh vào cảnh giới của những vị Trời dễ mến.[6]

Bà Visàkhà đã đóng góp một phần quan trọng trong nhiều lãnh vực khác có liên quan đến Phật sự. Đôi khi đức Phật dạy bà đi hòa giải những mối bất đồng giữa các Tỳ kheo ni. Cũng có lúc bà thỉnh cầu đức Phật ban hành một vài giới cho chư tăng ni. Bà được xem là người tín nữ có công đức nhiều nhất trong các Phật sự và cũng là vị thí chủ quan trọng nhất của phái nữ vào thời Phật tại thế.

Do phẩm hạnh trang nghiêm, tư cách thanh nhã, ngôn ngữ lễ độ khôn khéo, tánh tình lịch duyệt hiếu khách, tâm đạo nhiệt thành, bà được lòng tất cả những ai đã gặp bà. Bà được diễm phúc làm mẹ của mười người con trai và mười người con gái, tất cả đều hiếu thảo. Bà từ trần lúc được 120 tuổi, trên đầu chưa hề có một sợi tóc bạc.

Đức Phật đã nói về bà Visàkhà như sau :

Này các thầy, như một ngưởi thợ khéo dùng một đống lớn hoa đủ loại để kết thành những tràng hoa xinh đẹp, bà Visàkhà luôn luôn có sáng kiến để làm việc thiện.

.

Cuộc đời Đức Phật Thích Ca 

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications