Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Cuộc đời Đức Phật Thích Ca TC127A02 : G - Hạ 24 - Mười hai nhân duyên (Paticca samuppàda
Một hôm, tại giảng đường ở tinh xá Jetavana, trong giờ thuyết pháp, Phật nói[3]: –Này các vị khất sĩ, tất cả chúng sanh đều đồng có 12 nhân duyên, cũng có nội, cũng có ngoại. Mười hai nhân duyên đó là : Phiền não quá khứ gọi là vô minh; nghiệp quá khứ gọi là hành[4]; trong đời hiện tại, lúc sơ khởi nhập thai gọi là thức[5]; năm phần nhập thai, chưa đủ bốn căn (mắt, tai, mũi, lưỡi) gọi là danh sắc; khi đầy đủ bốn căn gọi là lục nhập[6]; chưa phân biệt khổ vui gọi là xúc[7]; biết phân biệt khổ vui gọi là thọ; thích gần ngũ dục gọi là ái; tham cầu các thứ trong và ngoài gọi là thủ; do ái thủ các thứ trong và ngoài mà khởi nghiệp thân, khẩu, ý, gọi là hữu; thức đời hiện tại gọi là vị lai sanh; hiện tại danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, gọi là vị lai lão, bệnh, tử. Tất cả chúng sanh từ sanh đến lão tử đều có đủ 12 nhân duyên như vậy; chỉ trừ những phôi thai (kalala)[8]yểu tử thời không có đủ 12. Chúng sanh cõi sắc không có 3 thứ thọ, 3 thứ xúc, 3 thứ ái, không có già, bệnh, nhưng cũng được xem là đầy đủ 12. Chúng sanh cõi Vô Sắc tuy không có sắc, không có lục nhập, xúc, thọ, ái, già, bệnh, nhưng cũng được xem là đầy đủ 12, vì quyết định được như vậy. Vì thế nên nói rằng chúng sanh đồng có đầy đủ 12 nhân duyên.
Tìm kiếm nhanh
student dp

ID:5044

Các tên gọi khác

Một hôm, tại giảng đường ở tinh xá Jetavana, trong giờ thuyết pháp, Phật nói[3]: –Này các vị khất sĩ, tất cả chúng sanh đều đồng có 12 nhân duyên, cũng có nội, cũng có ngoại. Mười hai nhân duyên đó là : Phiền não quá khứ gọi là vô minh; nghiệp quá khứ gọi là hành[4]; trong đời hiện tại, lúc sơ khởi nhập thai gọi là thức[5]; năm phần nhập thai, chưa đủ bốn căn (mắt, tai, mũi, lưỡi) gọi là danh sắc; khi đầy đủ bốn căn gọi là lục nhập[6]; chưa phân biệt khổ vui gọi là xúc[7]; biết phân biệt khổ vui gọi là thọ; thích gần ngũ dục gọi là ái; tham cầu các thứ trong và ngoài gọi là thủ; do ái thủ các thứ trong và ngoài mà khởi nghiệp thân, khẩu, ý, gọi là hữu; thức đời hiện tại gọi là vị lai sanh; hiện tại danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, gọi là vị lai lão, bệnh, tử. Tất cả chúng sanh từ sanh đến lão tử đều có đủ 12 nhân duyên như vậy; chỉ trừ những phôi thai (kalala)[8]yểu tử thời không có đủ 12. Chúng sanh cõi sắc không có 3 thứ thọ, 3 thứ xúc, 3 thứ ái, không có già, bệnh, nhưng cũng được xem là đầy đủ 12. Chúng sanh cõi Vô Sắc tuy không có sắc, không có lục nhập, xúc, thọ, ái, già, bệnh, nhưng cũng được xem là đầy đủ 12, vì quyết định được như vậy. Vì thế nên nói rằng chúng sanh đồng có đầy đủ 12 nhân duyên.

General Information

Danh sách : Liên quan
:
Cuộc đời Đức Phật Thích Ca TC127A02 : G - Hạ 24 - Mười hai nhân duyên (Paticca samuppàda

Mười hai nhân duyên (Paticca samuppàda[2])

 

Một hôm, tại giảng đường ở tinh xá Jetavana, trong giờ thuyết pháp, Phật nói[3]:

Này các vị khất sĩ, tất cả chúng sanh đều đồng có 12 nhân duyên, cũng có nội, cũng có ngoại. Mười hai nhân duyên đó là : Phiền não quá khứ gọi là vô minh; nghiệp quá khứ gọi là hành[4]; trong đời hiện tại, lúc sơ khởi nhập thai gọi là thức[5]; năm phần nhập thai, chưa đủ bốn căn (mắt, tai, mũi, lưỡi) gọi là danh sắc; khi đầy đủ bốn căn gọi là lục nhập[6]; chưa phân biệt khổ vui gọi là xúc[7]; biết phân biệt khổ vui gọi là thọ; thích gần ngũ dục gọi là ái; tham cầu các thứ trong và ngoài gọi là thủ; do ái thủ các thứ trong và ngoài mà khởi nghiệp thân, khẩu, ý, gọi là hữu; thức đời hiện tại gọi là vị lai sanh; hiện tại danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, gọi là vị lai lão, bệnh, tử. Tất cả chúng sanh từ sanh đến lão tử đều có đủ 12 nhân duyên như vậy; chỉ trừ những phôi thai (kalala)[8]yểu tử thời không có đủ 12. Chúng sanh cõi sắc không có 3 thứ thọ, 3 thứ xúc, 3 thứ ái, không có già, bệnh, nhưng cũng được xem là đầy đủ 12. Chúng sanh cõi Vô Sắc tuy không có sắc, không có lục nhập, xúc, thọ, ái, già, bệnh, nhưng cũng được xem là đầy đủ 12, vì quyết định được như vậy. Vì thế nên nói rằng chúng sanh đồng có đầy đủ 12 nhân duyên.

Ngưng một lúc, đức Phật nói tiếp[9]:

Này các vị khất sĩ, Như Lai nhớ kiếp trước, khi chưa thành Chánh giác, một mình ở chỗ thanh vắng, chuyên tu thiền vắng lặng (samatha) và thiền minh sát (vipassanà), đã khởi nghĩ như sau: “Vấn đề nan giải của thế gian là sanh, già, bệnh, chết, dời đổi, thọ sanh. Nhưng chúng sanh lại cứ nương tựa, bám víu vào sự sống như không hay biết gì về những khổ nạn đó.” Ta liền khởi chánh tư duy để tìm ra nguồn gốc các khổ nạn của chúng sanh. Ta tự hỏi: “Pháp gì có nên có Sanh, pháp gì làm duyên nên có Sanh ?” Sau khi quán chiếu tường tận, ta biết “Có Hữu[10]nên có Sanh, vì duyên Hữu nên có Sanh”. Ta lại tự hỏi “Pháp gì có nên có Hữu, pháp gì làm duyên nên có Hữu ?” Sau khi quán chiếu tường tận, ta biết “Vì có Thủ[11]nên có Hữu, duyên Thủ nên có Hữu”. Ta lại tự hỏi “Pháp gì có nên có Thủ, pháp gì làm duyên nên có Thủ ?” Sau khi quán chiếu tường tận, ta biết “Do chấp giữ các pháp, đắm trước, nghĩ nhớ, vương vấn trong lòng nên ái dục tăng trưởng. Vì có Ái nên có Thủ”. Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sanh, Sanh duyên Lão, Bệnh, Tử, ưu, bi, khổ, nãoNhư vậy chính Ái là nguồn gốc của khổ.[12]

“Này các vị khất sĩ, các thầy nghĩ sao ? Ví như nhờ dầu, tim đèn, mà đèn được đốt sáng. Nếu tăng thêm dầu và tim thì đèn có sáng lâu không ?

Bạch Thế Tôn, đúng thế. Nếu dầu và tim càng nhiều thì đèn cháy càng lâu.

Này các vị khất sĩ, cũng như thế, nếu đối với sáu trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp mà càng chấp thủ, đắm trước, nghĩ nhớ, thích thú, vương vấn, thì ái càng tăng. Mà ái càng tăng thì thủ, hữu, sanh, lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não cũng đều tăng theo. Do đó phải biết ái là nhân duyên sanh khổ.[13]

“Này các vị khất sĩ, ta lại tự hỏi “Pháp gì không nên không có lão, bệnh, tử? Pháp gì diệt nên lão, bệnh, tử diệt ?”. Sau khi quán chiếu tường tận, ta biết “Nếu không có sanh thì không có lão, bệnh, tử. Nếu diệt được sanh thì lão, bệnh, tử không còn.” Ta lại tự hỏi “Pháp gì không nên không có sanh ? Pháp gì diệt thì sanh diệt ?” Sau khi quán chiếu tường tận, ta biết “Nếu hữu không thì sanh không; nếu hữu diệt thì sanh diệt”. Tiếp tục quán chiếu như thế, ta biết “Nếu thủ không thì hữu không, nếu ái không thì thủ không”. Do đó nếu ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sanh diệt, sanh diệt thì lão, bệnh, tử, ưu, bi, khổ, não đều diệtNhư vậy, muốn dứt sanh, già, bệnh, chết, khổ não, bi ai, thì trước hết phải diệt trừ tham ái.

Này các vị khất sĩ, các thầy nghĩ sao ? Nếu vứt hết tim đèn, đổ bỏ hết dầu thì đèn kia còn cháy được chăng hay sẽ tắt ?

Bạch Thế Tôn, không còn tim và dầu thì ngọn đèn dĩ nhiên phải tắt.

Đúng vậy, này các thầy, nếu đối với các pháp các thầy đều không chấp thủ, trái lại các thầy khởi quán vô thường, bất tịnh, khổ, không, lìa dục, xả ly, diệt tận, tâm không ham muốn, không nhớ nghĩ, không đắm trước thì ái không sanh. Đến khi ái đã dứt thì sanh, già, bệnh, chết, bi ai, khổ não không còn nương vào đâu để có mặt, để hiện hữu.

Phật nói kinh này xong, các vị khất sĩ đều hoan hỉ tín thọ phụng hành.

Đến chiều, Thượng tọa Ànanda đến ngồi bên cạnh Phật, thưa :

Bạch Thế Tôn, kinh Paticca samuppàda thật quan trọng, vì kinh này chỉ rõ pháp tu giải thoát. Nhưng con thấy kinh này không khó, rất dễ hiểu và dễ nhớ. Như thầy Svastika mới nghe lần đầu mà cũng thông suốt, không có gì thắc mắc.

Này Ànanda, thầy không nên nghĩ như thế. Kinh này thật thâm sâu khó hiểu. Thầy chỉ mới hiểu theo trình độ hiện nay của thầy mà thôi. Thầy chưa hiểu hết ý nghĩa cao siêu của kinh. Thầy nên tiếp tục quán chiếu để tìm hiểu thêm. Trí tuệ như thầy Sàriputta cũng còn chưa hiểu hết ý nghĩa cao siêu của mười hai nhân duyên.[14]

Nghe đức Phật nói như thế, Thượng tọa Ànanda nhớ lại cuộc đàm thoại giữa Thượng tọa Sàriputta và Thượng tọa Mahà Kotthita (Mahà Kausthila, Mahà Câu Hy La), lúc ở vườn nai tại Isipatana gần Benares. Vào một buổi chiều, sau khi tọa thiền, Thượng tọa Sàriputta đến chỗ Thượng tọa Mahà Kotthita, vui vẻ hỏi thăm nhau, rồi cùng ngồi xuống đàm đạo. Thượng tọa Sàriputta nói[15]:

Này sư huynh, tôi có điều muốn hỏi, sư huynh có rảnh để giải đáp cho chăng?

Sư huynh cứ hỏi, điều gì biết được tôi sẽ đáp.

Thưa sư huynh, thế nào ? Có già không ?

Thưa có.

Có chết không ?

Có.

Già chết là tự mình làm ra, hay do người khác làm ra, hay vừa tự mình vừa do người khác làm ra, hay không phải tự mình cũng không do người khác, không do ai làm ra cả ?

Thưa sư huynh, già chết không phải tự mình làm ra, không phải do người khác làm ra, không phải do mình và người khác làm ra, không phải tự mình cũng không do người khác, không do ai làm ra cả. Chỉ vì có sanh nên có già chết.

Như vậy sanh, hữu, thủ, ái, thọ, xúc, sáu căn, danh sắc[16]là tự mình làm ra, do người khác làm ra, vừa tự mình vừa do người khác làm ra, hay không phải tự mình cũng không do người khác, không do ai làm ra cả ?

Thưa sư huynh Sàriputta, danh sắc không phải tự mình làm ra, không phải do người khác làm ra, không phải vừa tự mình vừa do người khác làm ra, không do ai làm ra cả. Chỉ vì có thức[17]nên có danh sắc.

Này sư huynh, thức là tự mình làm ra, do người khác làm ra, vừa tự mình vừa do người khác làm ra, hay không phải tự mình cũng không do người khác, không do ai làm ra cả ?

Thưa sư huynh Sàriputta, thức không phải tự mình làm ra, không phải do người khác làm ra, không phải vừa tự mình vừa do người khác làm ra, cũng chẳng phải không do mình và người khác làm ra. Chỉ vì có danh sắc (6 căn và 6 trần, thân và tâm) nên có thức.

Thưa sư huynh Mahà Kotthita, trước đây sư huynh nói “vì có thức nên có danh sắc”. Bây giờ sư huynh lại nói “vì có danh sắc nên có thức”. Sao lại nói trái ngược như thế ?

– Này sư huynh Sàriputta, tôi xin nói thí dụ, người trí nghe thí dụ liền hiểu. Ví như ba cây lau được dựng chụm vào nhau nơi khoảng đất trống, nhờ nương tựa vào nhau mới có thể đứng vững. Nếu lấy bớt ra một cây thì hai cây còn lại không thể đứng được; nếu lấy bớt đi hai cây thì một cây còn lại cũng không đứng được. Ba cây lau phải nương tựa lẫn nhau mới đứng vững. Thức và danh sắc cũng vậy, chúng phải nương tựa lẫn nhau mới được sanh trưởng[18].

Lành thay ! Lành thay ! Sư huynh Kotthita (Câu Hy La), ở trong hàng đệ tử Thinh văn của Phật, sư huynh là người trí tuệ thông đạt, khéo điều phục, không sợ hãi, thấy pháp cam lồ. Do pháp cam lồ mà chứng nghiệm đầy đủ. Này sư huynh Mahà Kotthita, với biện tài vô ngại, sư huynh đã giải đáp tất cả những câu hỏi về nghĩa lý sâu xa của mười hai nhân duyên. Như người thế gian đội ngọc quý vô giá trên đầu, tôi xin trân trọng nhận lấy những lời dạy bảo của sư huynh.

Thưa sư huynh Sàriputta, già chết là tai họa đáng chán; muốn hết già chết phải lìa dục, tận diệt tham ái. Khi biết nhàm chán sanh, hữu, thủ, ái, thọ, xúc, sáu căn, danh sắc, thức thì phải lìa dục, tận diệt tham ái. Lìa dục, tận diệt tham ái chính là vị Pháp sư của vị Tỳ kheo đã nhàm chán già chết. Tu căn viên thông, tận diệt sáu thức là pháp môn lìa dục, tận diệt tham ái để tự giải thoát khỏi mọi ràng buộc thế gian, ra khỏi sanh tử luân hồi. Đó là vị Pháp sư chân chính.

“Thưa sư huynh Sàriputta, trong các đệ tử Thinh văn của đức Thế Tôn, người có trí tuệ sáng suốt, khéo điều phục, không sợ hãi, thấy pháp cam lồ, do pháp cam lồ chính mình chứng nghiệm đầy đủ, đó chính là sư huynh Sàriputta. Nhờ sư huynh khéo hỏi những điều sâu xa của chánh trí, quý báu như hạt châu vô giá được người thế gian trân trọng đội trên đầu, nên tôi mới có dịp trả lời và học hỏi thêm.”

Thượng tọa Ànanda thầm nghĩ “Hai sư huynh Sàriputta và Mahà Kotthita đối đáp với nhau thông suốt như thế mà đức Phật còn bảo là chưa hiểu hết ý nghĩa của 12 nhân duyên. Vậy từ nay mỗi ngày ta nên thiền quán thêm mãi về đề tài này”.

Trong 12 nhân duyên, người tu nên chú ý đến 3 nhân duyên quan trọng nhất là Vô Minh, Thức và Ái. Vì ba nhân duyên đó dễ diệt trừ nhất để được giải thoát. Một điểm đáng chú ý khác là cái gì sanh ra vô minh ? Phật nói vô minh không có gốc. Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật nói "Tri kiến lập tri tức vô minh bổn". Có nghĩa là: Từ cái thấy biết thanh tịnh, như thật, không phân biệt, không khen chê của Tánh Giác, mà lập ra cái thấy biết có phân biệt chủ thể và đối tượng, rồi bị vướng mắc vào 6 trần (thương, ghét, khen, chê), đó là gốc của vô minh.

Muốn trừ vô minh thì phải học giáo lýđể biết rõ (giác ngộ) Bản Tâm Thanh Tịnh của chúng ta, rồi tập sống hằng ngày với Bản Tâm Thanh Tịnh đó bằng cách quán chiếu vô thường, khổ, không, vô ngã.

Muốn trừ thức và ái thì phải tu Căn Viên Thông, tức phải gìn giữ cho sáu căn được thanh tịnh, không đắm nhiễm sáu trần, không sanh ra ái, không sanh ra ý thức phân biệt.

.

Cuộc đời Đức Phật Thích Ca 

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications