Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
Kinh Tạp A Hàm-TA 1177 - KINH 1177. SÔNG TRO[51]
Kinh Tạp A Hàm-TA 1177 - KINH 1177. SÔNG TRO[51]
Tìm kiếm nhanh
student dp

ID:4680

Các tên gọi khác

Kinh Tạp A Hàm-TA 1177 - KINH 1177. SÔNG TRO[51]

General Information

Danh sách : Liên quan
:
Kinh Tạp A Hàm-TA 1177 - KINH 1177. SÔNG TRO[51]

KINH 1177. SÔNG TRO[51]
Tôi nghe như vầy

Một thời Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà, nước Xá-vệ. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:

“Thí như có một sông tro, bờ Nam rất nóng, nhiều gai nhọn, ở nơi tối tăm, có nhiều tội nhân ở trong sông trôi dạt theo dòng. Trong đó có một người thông minh trí tuệ, không ngu si, ưa lạc chán khổ, ham sống sợ chết, tự nghĩ: ‘Hiện tại ta vì duyên gì mà ở sông tro này, bờ Nam thì nóng bức lại nhiều gai nhọn; ở nơi tối tăm, trôi dạt theo dòng như vậy? Ta sẽ dùng chân tay làm phương tiện, bơi ngược dòng lên.’ Dần dần thấy được chút ánh sáng, người ấy thầm nghĩ, ‘Ta đã gắng sức mới thấy được chút ánh sáng này.’ Rồi lại vận dụng tay chân, gắng thêm, nỗ lực thêm và thấy được đất bằng. Tức thì đứng lại đó quan sát chung quanh, thấy núi đá lớn nguyên vẹn không bị lở, không sụt, không bị đục thủng. Liền leo lên trên, lại thấy ao nước trong mát có đủ tám phần: mát lạnh, ngon ngọt, nhẹ nhàng, êm dịu, thơm tho, trong xanh, khi uống không bị nghẹn, không trở ngại trong cổ, đã uống vào rồi thì thân thể an lạc. Người ấy liền vào trong đó, hoặc uống hoặc tắm, xa lìa được phiền não. Sau đó, leo lên trên núi lớn, gặp bảy loài hoa: hoa Ưu-bát-la, hoa Bát-đàm-ma, hoa Câu-mâu-đầu, hoa Phân-đà-lợi, hoa Tu-kiên-đề, hoa Di-ly-đầu-kiên-đề, hoa A-đề-mục-đa, nghe thấy mùi hương thơm. Rồi lại lên núi đá, thấy tòa nhà bốn tầng cấp, liền ngồi trên ấy; thấy màn che có năm trụ, liền vào trong đó, điều thân ngồi ngay thẳng. Ở trong này, đầy đủ gối mền, rải hoa khắp nơi, trang hoàng đẹp đẽtự do ngồi nằm, gió mát bốn bề, làm cho thân thể an ổn. Ngồi trên cao, vị ấy nhìn xuống cất lớn tiếng xướng rằng:

“Hỡi chúng sanh, các Hiền chánh sĩ trong sông tro! Sông này bờ Nam nóng bức, phần nhiều là gai nhọn; nơi này tối tăm, nên tìm cách ra khỏi sông này!” 

Có người nghe được những lời này, nương theo tiếng, hỏi rằng:

“Hướng nào ra được? Theo chỗ nào để ra?”

“Trong đó có lời nói:

“Ngươi cần gì hỏi, chỗ nào ra được? Cái người lớn tiếng gọi kia, chính nó cũng không biết, không thấy theo chỗ nào để ra. Nó cũng ở lại trong sông tro này, bờ Nam nóng bức, phần nhiều gai nhọn; ở đây tối tăm, theo dòng trôi xuống. Hỏi nó làm gì!

“Như vậy, Tỳ-kheo, Ta nói thí dụ này, nay Ta sẽ giải thích nghĩa của nó. 

“Tro chỉ cho ba ác giác bất thiện[52]. Những gì là ba? Là dục giác, nhuế giác và hại giác

“Sông chỉ cho ba ái: Dục áisắc áivô sắc ái. Bờ Nam rất nóng bức chỉ cho nội ngoại sáu nhập xứ. Phần nhiều là gai nhọn chỉ cho năm công năng của dục. Chỗ tối tăm chỉ cho vô minh che lấp tuệ nhãn. Nhiều người chỉ cho phàm phu ngu si. Dòng là chỉ cho sông sanh tử. Trong đó có một người không ngu không si là chỉ cho Đại Bồ-tát. Dùng tay chân làm phương tiện bơi ngược dòng là chỉ cho tinh cần tu học. Thấy một chút ánh sáng ẩn hiện là được pháp nhẫn. Gặp được đất bằng là chỉ cho trì giớiQuan sát bốn phương là chỉ cho thấy được bốn Chân đế. Núi đá lớn là chỉ cho Chánh kiến. Nước tám phần là chỉ cho tám Thánh đạo. Bảy loài hoa là chỉ cho bảy Giác chi. Nhà bốn tầng cấp là chỉ cho bốn Như ý túc. Năm trụ màn che là chỉ cho năm Căn: Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ. Thân ngồi ngay thẳng là chỉ cho Vô dư Niết-bàn. Rải hoa khắp nơi là chỉ cho các thiền địnhgiải thoát, tam-muội, chánh thọTự do ngồi nằm là chỉ cho Như LaiỨng CúngĐẳng Chánh Giác. Gió thổi bốn bề là chỉ cho bốn tâm tăng trưởng hiện pháp lạc trụ[53]. Cất tiếng kêu gọi là chỉ cho Chuyển pháp luân. Kia có người hỏi: ‘Chư Hiền chánh sĩ ra chỗ nào?’ là chỉ cho Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên và các Tỳ-kheo Hiền thánh. Ở trong đó có lời nói: ‘Ngươi cần gì hỏi, chỗ nào ra được? Cái người kia cũng không biết, không thấy theo chỗ nào để ra. Nó cũng ở lại trong sông tro này, bờ Nam nóng bức, phần nhiều gai nhọn; và chỗ tối tăm theo dòng trôi xuống’, chỉ cho lục sư và các người tà kiến. Đó là Phú-lan-na Ca-diếp, Mạt-già-lê Cù-xá-lê Tử, Tán-xà-da Tỳ-la-chi Tử, A-kỳ-đa-chỉ-xá Khâm-bà-la, Già-câu-la Ca-đàn-diên, Ni-kiền-liên-đà-xà-đề Phất-đa-la và những người tà kiến khác.

“Như vậy, Tỳ-kheo, Đại Sư vì các đệ tử mà làm những việc cần làm. Nay Ta đã làm xong. Bây giờ, các ông phải làm những việc cần làm như Ta đã nói trong kinh Tráp Rắn Độc.”

Phật nói kinh này xong, các Tỳ-kheo nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ phụng hành.

*
 

--------------------------------------------------------------------------------

[1]. Đại Chánh quyển 43. Ấn Thuận, 2. Tương ưng Nhập xứ (Tụng 2), hai trăm tám mươi lăm kinh: 188-462; Đại chánh: 188-255 (cuối quyển 7 – hết quyển 9), 1164-1177 (quyển 43), 273-342 (quyển 11-12). Quốc Dịch, 2. Tương ưng Nhập, mười hai phẩm. Quốc Dịch, quyển 12, “2. Tương ưng Nhập”, phẩm 12. Phật Quang, quyển 10. Pāli, A. 6. 61. Pārāyana.

[2]. Pāli: Sambahulānaṃ therānaṃ bhikkhūnaṃ, số đông các Tỳ-kheo Thượng tọa.

[3]. Bà-la-diên-đê-xá-di-đức-lặc sở vấn 波羅延低舍彌德勒所問; Những câu hỏi của Đê-xá-di-đức-lặc (Tissametteyyamānava-pucchā), trong phẩm Ba-la-diên (Pārāyana).Pāli:Sn. 5. 3. Tisamettyyamānavapucchā.

[4]. Hán: siêu xuất phùng trất ưu 超出縫紩憂. Pāli: taṃ brūmi mahāpuriso’ti, so idha sibbinimaccagā, (…), người ấy Ta gọi là Đại trượng phu mà ở đây đã thoát khỏi người thợ may.

[5]. Đại Chánh: thọ 受. Quốc Dịch và Phật Quang đọc là thọ 受. Ấn Thuận đọc là ái 愛 .

[6]. Pāli: taṇhā hi naṃ sibbati tassa tasseva bhavassa abhinibbatiyā, do ái dệt thành cái ấy nên dẫn đến sự xuất hiện của hữu.

[7]. Pāli: phassanirodho majjhe, xúc diệt là ở giữa. 

[8]. Pāli, S. 35. 127. Bhāradvāja. 

[9]. Tân-đầu-lô 賓頭盧. Pāli: Piṇḍolabhāradvāja. 

[10]. Bà-sa vương Ưu-đà-diên-na 婆蹉王優陀延那. Udena. 

[11]. Hán: nhiệm tha nhi hoạt 任他而活 . Đối chiếu Pāli: samannāgatā paṭhamena vayasā anikilītāvino kāmesu, với tuổi tráng niên đầu đời mà không đoái hoài đến các dục vọng.

[12]. Bản liệt kê ba mươi hai thứ bất tịnh trong thân. Bản Hán, nhiều hơn. 

[13]. Tăng thượng chấp trì 增上執持. Về thủ hộ căn môn.

[14]. Pāli, S.35.195-196. Hatthapādupama. 

[15]. Pāli, S.35.199. Kumma. 

[16]. Pāli: sāyaṃhasamayaṃ anunadītīre gocarapasuto ahosi, buổi chiều, nó đi dọc bờ sông để kiếm mồi. 

[17]. Hán: tàng lục 藏六. Pāli: soṇḍipañcamāni aṅgāni, năm chi mà cái đầu là thứ năm. 

[18]. Pāli: anissato aññamaheṭhayāno, không y tựa, không tổn thương kẻ khác. Sớ giải: taṇhādiṭṭhinissayehi anissito, không y tựa ái kiến.

[19]. Pāli: parinibbuto nūpavadeyya kañci, hoàn toàn viên tịch, không có gì chê trách. Bản Hán đọc: parinivuto, hoàn toàn được che kín.

[20]. Pāli, S. 35. 207. Yavakalāpi. 

[21]. Hán: hoàng mạch 祺麥. Pāli: yavakalāpī, bó lúa. 

[22]. Đương lai thế hữu 當來世有. Pāli: āyātiṃ punabbhava, hữu tái sanh trong đời tương lai. 

[23]. Pāli: asmī ti, iñjatam etam, nói rằng “Tôi hiện hữu”, đây là sự dao động.

[24]. Pāli: asmī’ ti…iñjitam etaṃ, ayam aham asmī’ti …bhavissan’ti … Na bhavissan’ti …rūpī bhavissan’ti … iñjitam etaṃ: “Tôi hiện hữu, đây là cái bị dao động (lung lay, lắc lư). Cái này là tôi… Tôi sẽ hiện hữu… Tôi sẽ không hiện hữu … sẽ có sắc… đây là cái bị dao động

[25]. Tư lương, hư cuống 思量虛誑. Pāli: asmī’ti … phanditam etaṃ : Tôi hiện hữu, đây là cái bị chấn động (run rẩy); asmī’ti… papañcitam etaṃ: tôi hiện hữu, cái này là hý luận

[26]. Ngã … ái; Pāli: : asmī’ti… mānagatam etaṃ, tôi hiện hữu, cái này là mạn. 

[27]. Pāli, S. 35. 205. Viṇā. 

[28]. Pāli: cakkhuviññeyyesu rūpesu uppajjeyya chando: tham dục sanh khởi nơi các sắc được nhận thức bởi mắt. 

[29]. Hán: nhược dục, nhược tham, nhược nật, nhược niệm, nhược quyết định trước xứ 若欲若貪若昵若念若決定著處.Pāli: chando vā rāgo vā doso vā moho vā paṭighaṃ vāpi: dục, tham, sân, si, hận. 

[30]. Pāli, S. 35. 206. Chapāṇa. 

[31]. Luật nghi bất luật nghi 律儀不律儀. Pāli: saṃvaro asaṃvaro. 

[32]. (…) giác tưởng tương tục trụ 覺想相續住. Pāli: upaṭṭhitakāyassati ca viharati appamāṇa-cetaso, “sống an trụ chánh niệm trên thân, với tâm tư vô lượng”. 

[33]. Pāli, S. 35. 206 (5-8) Capāṇa. Biệt dịch, N0125(38.8). 

[34]. Thất-thâu-ma-la 失收摩羅. Pāli: suṃsumāra, con cá sấu. 

[35]. Pāli: upaṭṭhitakāyassati, an trụ chánh niệm trên thân. 

[36]. Pāli, S. 35. 197. Āsīvisa. Biệt dịch, N0125(31,6). 

[37]. Pāli, S. 35. 203. Dukkhaddhamma. 

[38]. Pāli: kāmachando kāmasneho kāmamucchā kāmapariḷāho, ham muốn của dục, mê luyến của dục, mê đắm của dục, nóng bức của dục. 

[39]. Nại lâm 奈林 (?). Pāli: bahukaṇṭakaṃ dāyaṃ, khu rừng có nhiều gai. 

[40]. Pāli: dandho satuppādo, niệm khởi lên một cách chậm chạp

[41]. Hán: lâm thú lưu chú tuấn thâu đông phương 臨趣流注浚輸東方. Pāli: Gangā nadī pācīnaninnā pācīnapoṇā pācīnapabbhārā. 

[42]. Pāli, S. 35. 200. Dārukkhandha(1). Biệt dịch, N0125 (43.3). 

[43]. A-tỳ-xà Hằng thuỷ biên 阿毘闍恒水邊. Pāli: Kosambhiyaṃ viharati Gaṅgāya nadiyā tīre, trú tại Kosambhi, bên bờ sông Hằng

[44]. Bản Hán hình như bị nhảy sót: Tham chiếu Pāli: bị chìm giữa dòng là hỷ thâm (nandīrāga); bị mắc cạn là ngã mạn (asmīmāna). 

[45]. Nan-đồ 難屠. Pāli: Nando gopālako. 

[46]. Pāli, S. 35. 204. Kiṃsuka. 

[47]. Khẩn-thú thú 緊獸. Cũng âm là chân-thúc-ca. Tên một loai cây, hoa màu đỏ như thịt tươi. Pāli: kiṃsuka. 

[48]. Thi-lợi-sa 尸利沙. Hán dịch là họp hoan thọ. Pāli: sirīsa, cây Bồ-đề. Cf. D.ii. 4. Sammā-sambuddho sirīsassa mūle abhisambuddho, “Đức Phật ngồi dưới gốc cây Sirìsa mà thành Chánh giác”. 

[49]. Ni-câu-lâu-đà 尼拘婁陀. Pāli: nigrodha. 

[50]. Pāli, S. 35. 202. Avassuta. 

[51]. Pāli, không thấy tương đương. 

[52]. Tức ba bất thiện tầm: tham bất thiện tầm, sân bất thiện tầm, hại bất thiện tầm.

[53]. Chỉ bốn thiền
 
 

 

.

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications