Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
ĐPS T1B.001 CHƯƠNG 7 LINH TINH NHỮNG ĐIỂM CHÚ THÍCH VỀ CÁC PHÁP BA-LA-MẬT
Chúng tôi xin kết thúc câu chuyện về ạo sĩ Sumedha ở ây ể trình bày những chú thích cặn kẻ về mười pháp Ba-la-mật (như ã nêu ra trong chú giải của bộ Cariyā Piṭaka), nhằm mục ích em lại lợi ích cho những ai có chí nguyện thành ạt mục tiêu tối thượng là Chánh Đẳng Giác (Nhất thiết trí) và giúp họ có thể có ược sự thiện xảo trong hiểu biết thực hành và tích lũy những pháp cần thiết cho sự giác ngộ.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:5924

Các tên gọi khác

Chúng tôi xin kết thúc câu chuyện về ạo sĩ Sumedha ở ây ể trình bày những chú thích cặn kẻ về mười pháp Ba-la-mật (như ã nêu ra trong chú giải của bộ Cariyā Piṭaka), nhằm mục ích em lại lợi ích cho những ai có chí nguyện thành ạt mục tiêu tối thượng là Chánh Đẳng Giác (Nhất thiết trí) và giúp họ có thể có ược sự thiện xảo trong hiểu biết thực hành và tích lũy những pháp cần thiết cho sự giác ngộ.

General Information

Danh sách : Liên quan
:
ĐPS T1B.001 CHƯƠNG 7 LINH TINH NHỮNG ĐIỂM CHÚ THÍCH VỀ CÁC PHÁP BA-LA-MẬT

                            NAMO TASSA BHAGAVATO  ARAHATO SAMMĀSAMBUDDHASSA

 

CHƯƠNG 7 LINH TINH

NHỮNG ĐIỂM CHÚ THÍCH VỀ CÁC PHÁP BA-LA-MẬT

NHẰM ĐEM LẠI LỢI ÍCH CHO NHỮNG NGƯỜI CÓ CHÍ NGUYỆN THÀNH PHẬT.

Chúng tôi xin kết thúc câu chuyện về ạo sĩ Sumedha ở ây ể trình bày những chú thích cặn kẻ về mười pháp Ba-la-mật (như ã nêu ra trong chú giải của bộ Cariyā Piṭaka), nhằm mục ích em lại lợi ích cho những ai có chí nguyện thành ạt mục tiêu tối thượng là Chánh Đẳng Giác (Nhất thiết trí) và giúp họ có thể có ược sự thiện xảo trong hiểu biết thực hành và tích lũy những pháp cần thiết cho sự giác ngộ.

Ở chương này, những iểm sau ây sẽ ược bàn ến:

  1. Thế nào là các pháp Pāramī (Ba-la-mật)?
  2. Tại sao chúng ược gọi là Pāramī?
  3. Có bao nhiêu pháp Pāramī?
  4. Các pháp Pāramī ược sắp xếp như thế nào?
  5. Thế nào là tướng trạng, phận sự, thành quả và nhân cần thiết của các pháp Pāramī?
  6. Những iều kiện cơ bản của các pháp Pāramī là gì?
  7. Các yếu tố nào làm ô nhiễm các pháp Pāramī?
  8. Các nhân tố làm trong sạch các pháp Pāramī là gì?
  9. Những pháp ối nghịch với các pháp Pāramī là gì?
  10. Phương pháp thực hành chi tiết của các pháp Pāramī là gì?
  11. Sự phân tích ầy ủ các pháp Pāramī như thế nào?
  12. Sự tóm tắt các pháp Pāramī như thế nào?
  13. Các yếu tố làm thành tựu các pháp Pāramī là gì? 
  14. Thời gian cần thiết ể thành tựu các pháp Pāramī là bao lâu?
  15. Những lợi ích phát sanh từ các pháp Pāramī là gì?
  16. Quả của các pháp Pāramī là gì?

1.  Thế nào là các pháp Pāramī ?

Câu trả lời là: Những ức tánh như bố thí, trì giới, v.v... mà không bị hư hoại bởi ái dục, ngã mạn hoặc tà kiến, ược thành lập dựa vào tâm Đại bi và Trí tuệ thiện xảo trong việc tầm cầu các phước lành thì ược gọi là Pāramī.

Giải thích thêm: Ái dục làm lấm nhơ sự bố thí do ý nghĩ: “Đây là sự bố thí của ta.” Do ngã mạn: “Sự bố thí này do ta làm.” Do tà kiến: “Sự bố thí này là tự ngã của ta.” Sự bố thí như vậy ược xem là ã bị lấm nhơ do ái dục, ngã mạn và tà kiến. Chỉ loại bố thí nào không bị lấm nhơ bởi ba pháp trên mới ược xem là Pāramī. (Cách giải thích này áp dụng cho sự thọ trì giới và những pháp còn lại khác).

Để ược xem là Pāramī, những hành ộng tạo phước như dāna, sīla, v.v... không chỉ thoát khỏi sự nhiễm ô của ái dục, ngã mạn và tà kiến, mà còn phải dựa trên ức Đại bi (Mahā-karunā) và phương tiện thiện xảo trí (Upāya-kosalla-ñāṇa).

Đại bi – Mahā karunā

Vị Bồ tát nên em hết khả năng của mình ể khởi sanh tâm bi mẫn ối với tất cả chúng sanh, ở gần hoặc ở xa, tựa như tất cả họ ều là con ruột của vị ấy. Không phân biệt thân hay thù, vị ấy nên xem tất cả chúng sanh là những kẻ khổ au tội nghiệp trong luân hồi, nơi ó họ ngày êm bị thiêu ốt bởi các ngọn lửa tham, sân và si. Bởi các ngọn lửa sanh, lão, tử, sầu, bi, khổ và ưu. Quán như vậy, vị ấy nên khởi tâm bi mẫn mãnh liệt ối với họ. Tâm bi mẫn của vị ấy phải rộng lớn bao la ể cứu vớt chúng sanh ra khỏi luân hồi, ngay cả hy sinh mạng sống của mình. Tâm bi mẫn như vậy ược gọi là tâm ại bi,  Mahā-karunā - nền tảng của tất cả các pháp pāramī.

Trong kiếp sanh làm ạo sĩ Sumedha, lúc gặp Đức Phật Nhiên Đăng (Dīpaṅkāra), Bồ tát ã chứng ắc bát thiền và ngũ thông, và có thể chứng ắc ạo quả A-la-hán nếu Ngài muốn. Nhưng là một ại sĩ có lòng bi mẫn cao cả, Ngài chấp nhận chịu khổ trong luân hồi suốt bốn A-tăng-kỳ (asaṅkhyeyya) và một trăm ngàn ại kiếp thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật, ngõ hầu giải thoát chúng sanh khỏi khổ au.

 Phương tiện thiện xảo trí - Upāya-kosalla-ñāṇa

Đó là trí tuệ tinh thông trong sự thực hành các việc phước như dāna, sīla, v.v... nên nó trở thành phương tiện cơ bản và sự hỗ trợ ể thành ạt Nhất thiết trí. Vị thiện nam tử có chí nguyện thành Phật nên chuyên tâm vào các việc phước như dāna, sīla, v.v... với mục tiêu duy nhất là chứng ắc Nhất thiết trí (người ấy không nên mong mỏi những iều mà dẫn ến au khổ trong luân hồi). Trí tuệ giúp người ấy có thể hướng ến và khởi chí nguyện thành ạt Nhất thiết trí như là quả duy nhất của những việc phước của vị ấy thì ược gọi là phương tiện thiện xảo trí, Upāya-kosalla-ñāṇa.

Đại bi (Mahā-karunā) và Phương tiện thiện xảo trí (Upāya-kosallañāṇa) là hai pháp cơ bản cho sự chứng ắc ạo quả Phật và cho sự thực hành các pháp ba-la-mật. Người có chí nguyện thành Phật, iều ầu tiên là phải cố gắng ể thành ạt hai pháp cơ bản này.

Chỉ những ức tánh như dāna, sīla, v.v... ược tu tập dựa trên hai pháp cơ bản này mới là Ba-la-mật thực sự.

2. Tại sao ược gọi là Pāramī? 

Người ta có lẽ hỏi rằng tại sao mười ức pháp như dāna, sīla, v.v...  ược gọi là Pāramī.

Câu trả lời là: Tiếng Pāḷi ‘pāramī’ là sự kết hợp của ‘parama’ và ‘ī’. ‘Parama’ nghĩa là ‘tối cao’ và ược dùng ở ây ể nói ến chư Bồ tát, vì các Ngài là những chúng sanh cao thượng nhất, có những ức tánh siêu việt như dāna, sīla, v.v...

Vì các Ngài thực hành viên mãn và bảo vệ những ức pháp ặc biệt như dāna, sīla, v.v... vì sự xử sự của các Ngài thu hút và chiêu gọi chúng sanh ến bằng những ức pháp như dāna, sīla, v.v... vì các Ngài làm thanh tịnh cho người bằng cách oạn trừ những pháp ô nhiễm của họ với tấm lòng tận tụy hết mình; vì các Ngài ặc biệt tiến ến Niết bàn tối thượng; vì do biết rõ kiếp hiện tại nên các Ngài biết ược kiếp sau của chính mình; vì các Ngài thực hành các pháp như dāna, sīla, v.v... một cách siêu việt, tựa như chúng ã thấm sâu trong dòng tâm thức của các Ngài; vì các Ngài ã loại trừ và tiêu diệt ạo binh phiền não luôn e dọa các Ngài. Thế nên các vị Bồ tát ược gọi là ‘Parama’.

Không thể so sánh ược với Bồ tát vì Ngài có những ân ức ặc biệt như dāna, sīla, v.v... Đây là lý do có những câu nói rằng: “Người này là vị Bồ tát; vị ấy là ‘bậc Parama’, một con người siêu việt.” Như vậy những ức pháp ặc biệt như danā, sīla v.v..., ược gọi là ‘Parama’.  

Lại nữa, chỉ có những vị Bồ tát mới có thể thực hiện các phước lành như dāna, sīla, v.v... một cách phi thường. Cho nên những phước lành này ược gọi là Ba-la-mật (Pāramī), nghĩa là những phận sự của các vị Bồ tát (Paramānaṃ kammaṃ Paramī) hay tài sản của các vị Bồ tát (Paramānaṃ ayaṃ Pāramī).

  1. Có bao nhiêu pháp Pāramī? 

Theo úng với giáo pháp thì:

   Dānaṃ sīlañ ca nekkhammaṃ, Paññā viriyena pañcamaṃ, Khantī saccaṃ’adhiṭṭhānaṃ, Mett’upekkhā ti te dasa.

Có mười pháp Pāramī ó là: Bố thí, Giới, Xuất gia, Trí tuệ, Tinh tấn, Nhẫn nại, Chân thật, Chí nguyện, Tâm từ và Hành xả.

  1. Các pháp Pāramī ược sắp xếp như thế nào?  

Có năm cách sắp xếp theo thứ tự liên tiếp: 

  1. Pavattikkama  (Chuyển khởi thuận thứ) 
  2. Pahānakkama  (Xả oạn thuận thứ)
  3. Paṭipattikkama (Hành ạo thuận thứ)
  4. Bhūmikkama  (Địa thuận thứ)
  5. Desanākkama  (Thuyết thị thuận thứ) 
  1. Pavattikkama:  Liên quan ến thứ tự về các sự kiện ang xảy ra. Ví dụ: nói về sự thụ thai, kinh sách nói rõ rằng: “Paṭhāmaṃ kalalaṃ hoti, Kalalā hoti abbudaṃ,” v.v… Đối với các loại thai sanh thì thời kỳ thứ nhất là giai oạn chất lỏng kalala tồn tại trong bảy ngày, thời kỳ thứ hai là giai oạn chất bọt abbuda trong bảy ngày kế tiếp, thời kỳ thứ ba là giai oạn pesi dưới dạng cục thịt, v.v... Đây là cách sắp xếp theo thứ tự các sự kiện thực sự xảy ra  gọi là Chuyển khởi thuận thứ.
  2. Pahānakkama: Liên quan ến thứ tự của sự oạn trừ. Ví dụ: Nói về các phiền não, kinh sách giải rằng: “Dassanena pahātabbā dhammā, bhāvanāya pahātabbā dhammā,” v.v... Có

 

những pháp phải ược oạn trừ bởi giai oạn thứ nhất của con ường Đạo, có những pháp cần ược oạn trừ qua ba giai oạn cao hơn của con ường Đạo. Hình thức thuyết giảng theo thứ tự, của những bước oạn trừ ược gọi là Xả ạo thuận thứ. 

  1. Paṭipattikkama: Liên quan ến sự hành ạo. Ví dụ: Bảy giai oạn thanh tịnh gồm có giới thanh tịnh, tâm thanh tịnh, kiến thanh tịnh, v.v...  Giai oạn thứ nhất của pháp hành là làm thanh tịnh giới. Tiếp theo là sự thực hành ể làm cho tâm thanh tịnh. Bằng cách này, những giai oạn thanh tịnh phải tiến triển theo úng thứ tự của chúng. Sự thuyết giảng theo thứ tự của pháp hành ược gọi là Hành ạo thuận thứ .
  2. Bhūmikkama: Liên quan ến thứ tự về các cõi. Thứ tự ầu tiên của pháp thuyết giảng là dục giới (kāmāvacara), tiếp theo là sắc giới (rūpāvacara), rồi ến vô sắc giới (arūpāvacara). Sự sắp xếp trong giáo pháp như vậy ược gọi là Địa thuận thứ.
  3. Desanākkama: Thêm vào bốn cách sắp xếp giáo pháp kể trên, còn có cách thứ năm mà trong ó các pháp như sắc uẩn (rūpakkhandha), thọ uẩn (vedanākkhandha), tưởng uần (saññākkhandha), v.v... ược thuyết giảng theo thứ tự riêng vì lý do ặc biệt. Sự sắp xếp giáo pháp như vậy, ược gọi là thứ tự thuyết giảng của Đức Phật - Thuyết thị thuận thứ. 

Trong bốn cách sắp xếp ầu, mỗi cách ều có lý do riêng của nó ể i theo một thứ tự ặc biệt, vì những giai oạn hình thành thai nhi thực sự xảy ra trong trình tự ó; vì những phiền não thực sự ược oạn trừ trong trình tự ó; vì những hành ộng làm thanh tịnh ược thực hiện trong trình tự ó; hoặc vì các cõi thực sự ở trong thứ tự ó. Nhưng phương pháp thuyết giảng thứ năm, Thuyết thị thuận thứ (Desanākkama), Đức Phật có lý do ặc biệt, ể áp dụng cách sắp xếp trong sự thuyết giảng mỗi nhóm pháp như năm uẩn (khandha), mười hai xứ (āyatana) v.v...

Trong chương về Pāramī, các pháp Ba-la-mật không ược sắp xếp theo thứ tự của sự kiện xảy ra, theo sự oạn trừ, sự hành ạo hoặc các cõi như trong bốn cách ầu tiên mà chúng ược sắp xếp theo phương pháp thứ năm này, Thuyết thị thuận thứ (Desanākkama) do Đức Phật thuyết giảng vì lý do ặc biệt.

Có thể hỏi rằng: Tại sao Đức Phật sử dụng cách sắp xếp ặc biệt này, tức là bố thí, trì giới, xuất gia, v.v... mà không dùng cách sắp xếp nào khác trong việc thuyết giảng mười pháp Ba-la-mật?

Câu trả lời là: Khi Bồ tát, tức ạo sĩ Sumedha, lần ầu tiên suy xét về các pháp Pāramī cần ược thực hành sau khi nhận ược sự thọ ký, Ngài khám phá ra chúng trong một trình tự ặc biệt. Do ó, Ngài ã thực hành chúng theo trình tự ấy và sau khi chứng ắc thành Phật, Ngài thuyết giảng các pháp Pāramī cũng theo thứ tự mà Ngài ã từng thực hành.

Giải rõ hơn: Trong mười pháp Pāramī. Bố thí giúp phát triển Giới theo cách ặc biệt, ngay cả người không có giới (làm thí chủ trong trường hợp xuất gia sa-di của con trai ông ta) cũng có thể thọ trì giới mà không khó khăn gì và dễ thực hành bố thí hơn (dầu sự trì giới có thể khó thực hành ối với một người nào ó, nhưng sự bố thí thì không khó). Thế nên Bố thí Ba-la-mật (Dāna Pāramī) ược nêu ra trước hết.

Chỉ có Bố thí dựa vào Giới mới có lợi ích nhiều nhất. Bởi vậy theo sau Giới là Bố thí.

Chỉ có Giới dựa vào sự Xuất ly mới có lợi ích nhiều nhất. Bởi vậy sự Xuất ly ược thuyết giảng ngay sau Giới.

Tương tự, Xuất ly dựa vào Trí tuệ - Trí tuệ dựa vào Tinh tấn - Tinh tấn ược dựa vào Nhẫn nại - Nhẫn nại dựa vào Chân thật - Chân thật dựa vào Chí nguyện - Chí nguyện dựa vào Bác ái - Bác ái dựa vào Hành xả mới có lợi ích nhiều nhất. Như vậy Hành xả ược thuyết giảng sau Bác ái.

Hành xả có lợi ích chỉ khi nào nó dựa vào ức Bi mẫn. Các vị Bồ tát là những bậc ại sĩ, tất cả các Ngài ều có ức tánh cơ bản là tâm Đại bi.

Có thể ặt câu hỏi ở ây như thế này: Là những bậc có tâm ại bi, làm sao các vị Bồ tát có thể nhìn chúng sanh bằng tâm xả? (Một số vị A-xà-lê nói rằng: “Không phải trong tất cả mọi trường hợp và mọi lúc mà các vị Bồ tát sử dụng tâm xả ối với chúng sanh. Các Ngài làm như vậy chỉ khi nào cần thiết.”)

(Một số A-xà-lê khác thì nói rằng: “Các Ngài không tỏ thái ộ xả ối với chúng sanh mà chỉ ối với những hành ộng xúc phạm của chúng sanh mà thôi). Như vậy ức Đại bi và Xả Ba-la-mật không ối nghịch nhau.

Một cách giải thích khác về thứ tự của các pháp Ba-la-mật

  1. Dāna Pāramī - Bố thí ược giảng dạy ầu tiên (a) vì nó có thể xảy ra trong nhiều người nên nó thuộc về tất cả chúng sanh; (b) vì nó không có nhiều quả như giới, v.v... và (c) vì nó dễ thực hành.
  2. Sīla Pāramī - Giới ược nêu ra ngay sau bố thí (a) vì giới làm thanh tịnh cho người bố thí và người thọ vật thí, (b) vì sau khi thuyết giảng, pháp em lại lợi ích cho kẻ khác (như bố thí vật thực), Đức Phật dạy kiên tránh không làm khổ kẻ khác như sát sanh; (c) vì bố thí bao gồm hành ộng tích cực trong khi giới bao gồm sự thực hành kiên tránh, và Đức Phật muốn dạy sự kiên tránh sau khi dạy hành ộng tích cực (tức là bố thí); (d) vì bố thí dẫn ến sự thành ạt về của cải, còn giới dẫn ến tái sanh vào các cõi chư thiên và nhân lọai; (e) vì Ngài muốn giảng dạy về sự thành tựu ở cõi người và cõi trời sau khi dạy về sự thành ạt của cải.
  3. Nekkhamma Pāramī - Xuất ly  ược ề cập ngay sau trì giới (a) vì qua sự xuất ly, giới mới ược thọ trì hoàn hảo; (b) vì Đức Phật muốn giảng dạy thiện hạnh của ý (qua sự xuất ly - sự xuất ly ở ây không những chỉ về sự từ bỏ của cải mà còn chỉ về sự oạn trừ các phiền não trong tâm) ngay sau khi giảng dạy các thiện hạnh về thân và khẩu (qua giới); (c) vì sự chứng ạt thiền ịnh (xuất ly) dễ dàng ến với người có giới thanh tịnh; (d) tội khởi sanh từ những hành ộng bất thiện (kamma-paradha) ược oạn trừ qua sự thọ trì giới. Nhờ vậy, sự thanh tịnh của thân và khẩu (payoga-suddhi) ược thành tựu. Các phiền não trong tâm (kilesa-paradha) ược oạn trừ qua sự xuất ly. Nhờ vậy, thường kiến (sassata-ditthi) và oạn kiến (uccheda-ditthi) ược oạn diệt và thiên hướng thanh tịnh (āsaya-suddhi) liên quan ến Quán trí (Vipassanā-ñāṇa) và Nghiệp tác trí (Kammassakata- ñāṇa: trí thấy các hành ộng tạo nghiệp là tài sản của riêng mình) ược thành tựu. Vì vậy Đức Phật muốn giảng dạy về sự thanh tịnh của trí do sự xuất ly, theo sau sự thanh tịnh của Giới (payoga-suddhi) (e) vì Đức Phật muốn dạy rằng sự oạn trừ các phiền não trong tâm ở giai oạn triền (pariyutthana) do sự xuất ly có thể chỉ xảy ra sau khi oạn trừ các phiền não trong tâm ở giai oạn vi phạm (vītikkama) do giới.
  • Có ba giai oạn trong việc sanh khởi của phiền não (i) giai oạn ngủ ngầm (anusaya), (ii) giai oạn triền (pariyutthana), phiền não hiển lộ ở cửa tâm, (iii) giai oạn vi phạm (vītikkama) ở giai oạn này, phiền não trở nên dữ dội và không thể kiểm soát ược, chúng thể hiện qua hành ộng bất thiện về thân và lời nói.
  • Sự thọ trì giới ngăn chặn không cho phiền não biến thành hành ộng bất thiện qua thân và khẩu. Đây là sự oạn trừ tạm thời các phiền não (tadaṅga-pahana).
  • Sự thực hành thiền ịnh (samathabhāvana) ặc biệt ở giai oạn ắc ịnh, ngăn chặn sự sanh khởi của phiền não ở cửa tâm (giai oạn triền). Đây là sự trấn phục xả oạn (vikkhambhana-pahana).
  • Phiền não hoàn toàn bị oạn tận do ạo Tuệ. Ở giai oạn này phiền não ngủ ngầm bị oạn diệt hoàn toàn. Đây là sự xả oạn khiến phiền não bị dập tắt vĩnh viễn (samuccheda-pahana).
  1. Paññā Pāramī - Trí tuệ ược nêu ra ngay sau pháp xuất ly (a) do trí tuệ nên sự xuất ly ược hoàn hảo và thanh tịnh; (b) vì Đức Phật muốn dạy rằng không có trí tuệ nếu không có thiền jhāna (bao gồm sự xuất ly); (e) vì Ngài muốn dạy trí tuệ là nguyên nhân cần thiết của xả, ngay sau khi giảng dạy sự xuất ly là nguyên nhân cần thiết của sự ịnh tâm; và (d) vì Ngài muốn dạy rằng chỉ sự xuất ly với mục ích em lại phúc lạc cho chúng sanh mới có thể khởi sanh phương tiện thiện xảo trí (Upāya-kosalla-ñāṅa) ể làm lợi chúng sanh .
  2. Viriya Pāramī - Tinh tấn ược nói ến ngay sau trí tuệ (a) vì trí tuệ ược thành tựu do có tinh tấn (b) vì Đức Phật muốn dạy những iều kỳ diệu của tinh tấn vì lợi ích của chúng sanh sau khi dạy về trí tuệ là trí thông hiểu bản chất của thực tại là vô ngã (c) vì Ngài muốn dạy rằng nguyên nhân ể thành ạt tinh cần ngay sau nguyên nhân xả, và (d) vì Ngài muốn dạy rằng những lợi ích ặc biệt chỉ phát sanh từ sự cố gắng tinh cần sau khi ã suy xét cẩn thận.
  3. Khanti Pāramī - Nhẫn nại ược ề cập ngay sau tinh tấn (a) vì nhẫn nại ược thành tựu nhờ tinh tấn (vì chỉ có người tinh tấn mới có thể chịu ựng tất cả au khổ mà vị ấy gặp phải); (b) vì Đức Phật muốn dạy rằng tinh tấn là vật trang sức của nhẫn nại (sự nhẫn nại của kẻ lười biếng không áng ược khen ngợi, anh ta làm như vậy vì anh ta không thể chiến thắng; ngược lại sự nhẫn nại của người tinh tấn thì áng ược khen ngợi dù anh ta ang ở ịa vị của kẻ chiến thắng; (c) vì Ngài muốn giảng dạy nguyên nhân của ịnh ngay sau khi giảng dạy nguyên nhân của tinh tấn (phóng dật do tinh tấn quá mức chỉ ược oạn trừ nhờ thông hiểu pháp qua sự quán xét về nó

(dhammanijjhanakkhanti - pháp tự nhẫn); (d) vì Ngài muốn dạy rằng chỉ có người tinh tấn mới thường xuyên nỗ lực cố gắng (vì chỉ có người nhiều nhẫn nại mới không phóng dật và có thể thường xuyên làm các việc phước); (e) vì Ngài muốn dạy rằng khi có chánh niệm thì sự khao khát quả phước không khởi sanh trong lúc siêng năng làm việc phước lợi cho kẻ khác (khi quán về pháp ể làm những công việc lợi sanh thì không thể có tham ái), và (f) vì Ngài muốn dạy rằng vị Bồ tát kham nhẫn chịu ựng nỗi khổ do kẻ khác gây ra, khi vị ấy không siêng năng làm việc phúc lợi cho kẻ khác (hãy ọc bằng chứng từ truyện bổn sanh Cūla Dhammapāla, v.v...)

  1. Sacca Pāramī - Chân thật ược nêu ra ngay sau nhẫn nại (a) nhờ pháp chân thật thì nhẫn nại mới duy trì ược lâu dài, nghĩa là nhẫn nại chỉ tồn tại khi nào người ta có pháp chân thật; (b) vì sau khi nêu ra sự nhẫn nại ối với những iều sai trái kẻ khác gây ra, Đức Phật muốn dạy tiếp theo sau là cách mà vị Bồ tát giữ pháp chân thật với quyết ịnh là cứu ộ ngay cả những người ã vô ơn phản bội lại Bồ tát. (Vào lúc ược thọ ký, Bồ tát khi phát nguyện thành Phật, Ngài nguyện cứu ộ tất cả chúng sanh. Trung thành với chí nguyện bất di bất dịch của mình, Ngài cứu ộ cho cả những kẻ ã làm khổ Ngài). Để chứng minh, trong bổn sanh Mahākāpi, câu chuyện thứ sáu của chương Timsa Nipāta. Câu chuyện kể về Bồ tát lúc Ngài sanh làm khỉ chúa, ã cứu một vị Bà-la-môn bị rơi xuống khe núi. Bị kiệt sức vì ã cật lực cố gắng cứu người àn ông thoát khỏi nguy hiểm, Bồ tát tin tưởng người mà Ngài ã cứu, bèn gối ầu lên bụng của ông ta mà ngủ thiếp i. Ác tâm sanh khởi (muốn ăn thịt kẻ ã cứu giúp mình), tên Bà-la-môn ộc ác bèn lấy cục á ập vào ầu của Bồ tát. Bồ tát không hề khởi chút sân hận mà nhẫn nại chịu ựng cơn au do thương tích ở ầu và tiếp tục cố gắng giúp người àn ông thoát khỏi hiểm nguy của thú rừng. Ngài dẫn người àn ông ra khỏi rừng bằng cách chuyền từ cành cây này sang cành cây khác, ể lại những giọt máu trên ất cho người àn ông lần theo ó mà ra khỏi khu rừng (c) vì Ngài muốn cho thấy rằng vị Bồ tát vốn sẵn có lòng ộ lượng bao dung sẽ không bao giờ từ bỏ pháp chân thật dù bị kẻ khác ối xử tệ hại hay xúc phạm, và (d) vì sau khi dạy pháp thiền quán ể tỏ ngộ lý vô ngã, Đức Phật muốn cho thấy trí tuệ về sự chân thật ược tu tập qua quá trình suy quán ấy (dhammanijjhānakkhantī).
  2. Adiṭṭhāna Pāramī - Chí nguyện ược nêu ra ngay sau chân thật: (a) chân thật ược thành tựu nhờ chí nguyện, nghĩa là sự từ bỏ gian dối ược trọn vẹn khi người có chí nguyện quyết tâm nói lời chân thật trước sau như một, cho dù hy sinh cả sanh mạng của mình; (b) vì sau khi giảng dạy về sự chân thật, Ngài muốn dạy về sự trung thành tuyệt ối của vị Bồ tát ối với sự thật mà không chút dao ộng; và (c) vì sau khi dạy rằng chỉ những người có trí tuệ thấy rõ sự thật của các pháp, mới có thể nguyện thực hành các pháp Ba-la-mật ến chỗ viên thành. Ngài muốn dạy rằng những pháp cần thiết của Ba-la-mật có thể ược tu tập viên thành nhờ trí tuệ thấy rõ chân lý.
  3. Mettā Pāramī - Từ ái ược nêu ra ngay sau chí nguyện: (a) vì sự tu tập từ ái giúp thành tựu chí nguyện ộ sanh; (b) vì sau khi dạy về chí nguyện, Đức Phật muốn dạy pháp em ến lợi ích cho chúng sanh theo úng với chí nguyện của Ngài (vì vị Bồ tát trên bước ường thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật, Ngài thường trú ở trong pháp bác ái); (c) vì khi người ta ã an trú vững chắc trong chí nguyện ộ sanh, người ta có thể thực hiện chí nguyện ấy bằng pháp bác ái.
  4. Upekkhā Pāramī - Hành xả ược nêu ra ngay sau bác ái:  (a) vì hành xả làm cho pháp bác ái trở nên thuần khiết (nếu người ta tu tập pháp bác ái mà không có hành xả, người ấy có thể bị dối gạt bởi tình thương thiên vị mang mặt nạ của bác ái). Chỉ khi nào người ta có tu pháp xả, khi ấy họ mới gạt bỏ ược cái mặt nạ tham ái ấy;  (b) vì sau khi giảng dạy cách em lại phúc lợi cho chúng sanh bằng pháp bác ái, Đức Phật muốn dạy rằng hành xả phải ược duy trì ối với những iều sai trái do chúng sanh áp trả (vị Bồ tát làm công việc phúc lợi cho chúng sanh bằng pháp bác ái. Ngài giữ tâm bình thản, khoan dung, tha thứ cho tất cả chúng sanh khi họ xúc phạm, ngược ãi Ngài); (c) vì sau khi dạy pháp tu bác ái, Đức Phật muốn dạy về những lợi ích của nó. Vì chỉ sau khi tu tập bác ái, hành xả mới có thể tu tập thành công;  (d) Đức Phật muốn dạy ân ức kỳ diệu của vị Bồ tát là vị ấy có thể giữ tâm bình thản ngay cả ối với những người tỏ thiện ý ến Ngài.

Như vậy bậc Đạo sư của chúng ta, Đấng giáo chủ của cõi Sa-bà, ã dạy pháp Ba-la-mật theo úng trình tự của chúng, như ã mô tả ở trên ược sắp xếp úng nguyên tắc, không ra ngoài nguyên tắc hoặc tự tiện.

5. Thế nào là tướng trạng, phận sự, sự hiện khởi, và nhân cần                         thiết của các pháp Pāramī ?

Chúng ta sẽ bắt ầu phần này bằng những bài giải thích về tướng trạng, phận sự, thành quả và nhân cần thiết. Tiếp theo, chúng tôi sẽ bàn về ịnh nghĩa và ý nghĩa chính của các pháp Ba-la-mật cùng với tướng trạng, phận sự, sự hiện khởi và nhân cần thiết chung và riêng của chúng.

Trí tuệ phá ngã kiến (atta-diṭṭhi) chỉ xảy ra nhờ sự thông ạt những thực tại cùng tột của danh (nāma) và sắc (rūpa) qua pháp quán mỗi thực tại về tướng trạng, phận sự, sự hiện khởi và nhân cần thiết của nó. Tương tự, chỉ khi nào người ta biết ược tướng trạng, phận sự, sự hiện khởi và nhân cần thiết chung và riêng của các pháp Ba-la-mật, khi ó người ta mới hiểu biết rõ ràng về chúng. Do ó, các bộ kinh thường mô tả bốn cách ịnh nghĩa về các pháp Ba-la-mật.

Lakkhaṇa - Tướng trạng: Chú giải ịnh nghĩa rằng: Sāmaññaṃ vā sabhāvo vā, dhāmmānaṃ lakkhanaṃ mataṃ - Tướng trạng có hai phương diện: (1) tướng chung (sāmañña) và (2) tướng riêng (sabhāva) (ví dụ: ịa ại (paṭhavī) có hai loại ặc tánh, ó là (a) thay ổi, vô thường, bất toại nguyện, không chịu sự kiểm soát và (b) tánh cứng. Những ặc tánh trong phần (a) là chung ối với những ại khác, trong khi ó tánh cứng (b) là ặc tánh riêng của ịa ại, những ại khác không có ặc tánh này).

Rasa - Phận sự: Chú giải ịnh nghĩa rằng: Kiccaṃ vā tassa sampatti, rasati paridīpaye. Phận sự ược giải thích cũng bằng hai cách: kiccasampatti. (1) Kicca rasa: phận sự cần phải làm, và (2) Sampatti rasa: phận sự thành tựu.

Paccupaṭṭhāna - Sự hiện khởi: Chú giải ịnh nghĩa rằng: Phalaṃ va paccupaṭṭhānaṃ upaṭṭhānākāropi vā. Bất cứ khi nào người ta quán xét sâu sắc về một ối tượng nào ó của tâm, iều gì thường xuất hiện trong tâm của người ấy liên quan ến bản chất của cảnh pháp ( ối tượng của tâm) ang ược suy xét, liên quan ến phận sự, nguyên nhân và kết quả của nó. Như vậy, bất cứ ai xuất hiện trong tâm của một người liên quan tới cảnh pháp anh ta ang nghĩ ến, ược gọi thành quả hay sự hiện khởi.

Chú thích: Sự hiện khởi nên ược hiểu là phalaupaṭṭhānākāra. (a) phala: quả, là kết quả của các thực tại cùng tột và (b) upaṭṭhānākāra: sự vận hành hiện khởi trong tâm của hành giả (yogī). Bất cứ khi nào vị hành giả quán xét sâu sắc về một thực tại cùng tột nào ó, pháp liên quan ến bản chất, phận sự, nguyên nhân hoặc kết quả của thực tại ấy sẽ xuất hiện trong tâm. Như vậy sự liên hệ ến một trong bốn iều này và xuất hiện trong tâm của hành giả thì ược gọi là hiện khởi.

Padaṭṭhāna - Nguyên nhân gần: Chú giải ịnh nghĩa rằng: Asannakāranam yaṁ tu, padaṭṭhānanti tam matam - nhân tố phụ trợ cấp thiết cho sự sanh khởi một thực tại cùng tột (pháp Chân ế) ược gọi là nguyên nhân gần.

Như vậy bốn iểm chính của các pháp Ba-la-mật là gì? Câu trả lời là: Trước hết bàn ến những iểm chung cho cả mười pháp Ba-la-mật, (1) chúng có ặc tánh là phục vụ lợi ích cho người khác (2) chúng có phận sự (kicca rasa) là giúp ỡ kẻ khác, hoặc thực hiện ngay (sampatti rasa), (3) sự hiện khởi của chúng là sự xuất hiện trong tâm của vị hành giả sự hiểu biết rằng chúng có bản tánh mong mỏi phúc lợi cho kẻ khác hay kết quả ược thành Phật; (4) nguyên nhân gần của chúng là tâm Đại bi (Mahā-karunā) và Phương tiện thiện xảo trí (Upāya-kosalla- ñāṇa).

Bốn nét ặc thù của mỗi pháp Ba-la-mật là:  Ý chí ược thành lập dựa trên Mahā-karunāUpāya-kosalla-ñāṇa ể buông bỏ, bố thí, em tài sản của mình cho kẻ khác thì ược gọi là Bố thí Ba-la-mật (Dāna)

(a) Dāna có ặc tánh buông bỏ; (b) Phận sự của Dāna là tiêu diệt sự tham luyến ối với những vật chất cho i. (c) Sự hiện khởi của Dāna là trạng thái vô tham xuất hiện trong tâm của hành giả (bản chất của Dāna) hoặc sự giàu sang, thịnh vượng và kiếp sống hạnh phúc (kết quả của Dāna) (d) Nguyên nhân gần là vật cho i, vì sự bố thí chỉ xảy ra khi nào có vật thí.

  1. Bố thí Ba-la-mật (Dāna Paramī) ược hiểu rõ chỉ khi nào nó ược nghiên cứu rành mạch qua bốn khía cạnh này. Khi ã nghiên cứu như vậy, nó trở nên rõ ràng và hiểu rằng bố thí là hành ộng có ặc tính là dứt bỏ. Đồng thời nó tiêu diệt sự tham luyến ối với vật cho. Trong tâm của vị hành giả mà suy xét sâu sắc và cẩn trọng, sẽ xuất hiện trạng thái vô tham ối với những vật bố thí cúng dường hoặc sẽ xuất hiện loại nghiệp mà có thể em lại một kiếp sống giàu sang và thịnh vượng. Bố thí chỉ xảy ra chỉ khi nào người ta có một cái gì ó ể cho i.

(Sự suy xét như vậy cũng ược áp dụng cho tất cả những pháp Bala-mật còn lại).

  1. Hành ộng thiện về thân và lời nói dựa trên Mahā-karunāUpāya-kosalla-ñāṇa thì ược gọi là Giới Ba-la-mật (Sīla Paramī). Theo tạng Abhidhamma, Giới có nghĩa là kiên tránh những hành ộng sái quấy không ược vi phạm (tức là những Sở hữu giới phần – virati cetasika) và tác ý (cetanā) ể làm các phận sự cần phải làm.

(a) Giới có ặc tánh không cho phép những hành ộng về thân và lời nói sai trái, mà giữ chúng ở trong con ường thiện. Nó cũng có ặc tánh là làm nền tảng cho tất cả mọi hành ộng thiện lành. (b) Phận sự của giới là ngăn cản người ta làm những việc i ngược với ạo ức - tức là ba ác nghiệp về thân và bốn ác nghiệp về khẩu. Hoặc nó giúp người ta ạt ến tình trạng có giới ức với các hành ộng về thân và lời nói vô tội và trong sạch. (d) Nguyên nhân gần của nó là hổ thẹn (hirī) và ghê sợ tội lỗi (ottapa).

3. Dựa trên Mahā-karunāUpāya-kosalla-ñāṇa, nhóm tâm và các sở hữu tâm mong muốn thoát ly các kiếp sống dục trần, sau khi nhận rõ những tội lỗi của vật dục (vatthu kāma), phiền não dục và các kiếp sống khác nhau thì ược gọi là Xuất gia Ba-la-mật (Nekhamma Paramī).

(a) Xuất gia Ba-la-mật có ặc tánh thoát ly khỏi các dục và cõi dục. (b) Phận sự của nó là làm rõ nét những tội lỗi của các dục và cõi dục. (c) Sự hiện khởi của nó là sự giác ngộ của hành giả, thấy rằng ang từ bỏ, xa lánh những trạng thái này của cõi dục. (d) Nguyên nhân gần của nó là yểm ly trí (saṃvega-ñāṇa). (Saṃvega-ñāṇa - Yểm ly trí là trí ược hình thành do sự ghê sợ (ottappa) các khổ nạn như sanh, già, bịnh, chết và các khổ cảnh)

  1. Dựa trên Mahā-karunāUpāya-kosalla-ñāṇa, sở hữu trí tuệ thông ạt các ặc tánh chung và riêng của các pháp là Trí tuệ Ba-lamật (Paññā Paramī).

(a) Trí tuệ Ba-la-mật có ặc tánh thông ạt bản chất thật của các pháp; hoặc nhận biết chính xác các ặc tánh chung và riêng của các ối tượng qua sự suy quán, giống như người bắn cung thiện xảo bắn tên trúng vào mắt của con bò. (b) Phận sự của nó là soi sáng ối tượng giống như ngọn èn (tiêu diệt bóng tối của vô minh (moha) che dấu bản chất của các ối tượng). (c) Sự hiện khởi của nó (về bản chất) là trạng thái không lẫn lộn trong tâm của hành giả, liên quan ến các ối tượng suy quán, như người hướng ạo chỉ ường cho khách bộ hành bị lạc trong rừng. Hoặc về kết quả, nó có kết quả lợi ích là thoát khỏi sự si mê ối với các ối tượng suy quán. (d) Nguyên nhân gần là ịnh (samādhi) hoặc Tứ Thánh ế.

  1. Dựa trên Mahā-karunāUpāya-kosalla-ñāṇa những cố gắng về thân và tâm vì phúc lợi của người khác thì ược gọi là Tinh tấn Ba-lamật (Viriya Paramī).

(a) Tinh tấn Ba-la-mật có ặc tánh là nỗ lực (rất cố gắng). (b) Phận sự của nó là hỗ trợ và làm các yếu tố sanh chung với nó tăng lên sức mạnh ể chúng không lơi lỏng trong sự thực hành các việc phước thiện. (c) Sự hiện khởi của nó là tánh kiên trì trong tâm của hành giả, có tánh chất ối nghịch với sự dể duôi khi thực hành các việc phước thiện. (d) Nguyên nhân của nó là yểm ly trí (saṃvega-ñāṇa) hoặc tám nhân tố khơi dậy sự tinh tấn (viriyārambha-vatthu). 

Viriyārambha-vatthu: Đại ức Mahā Visuddhārama Sayadaw trong bộ sách Paramattha-sarūpa Bhedani của Ngài, ở phần nói về thiền quán, ã mô tả tám yếu tố khơi dậy tinh tấn (viriyārambha vatthu):hai yếu tố liên quan ến sự sửa sang và duy trì tinh tấn, hai yếu tố liên quan ến cuộc lữ hành, hai yếu tố liên quan ến sức khỏe; và hai yếu tố liên quan ến sự thọ thực.

Hai yếu tố liên quan ến sự sửa sang và duy trì tinh tấn 

  1. Vị tỳ khưu suy nghĩ như vầy: “Ta phải sửa y áo, v.v... Khi bận rộn như vậy, ta sẽ không dễ dàng chuyên tâm vào giáo pháp của Đức Thế Tôn. Ta sẽ cố gắng chuyên tâm học giáo pháp trước khi bắt ầu công việc sửa y áo.”
  2. Sau khi hoàn thành việc sửa y áo, vị ấy lại suy nghĩ: “Ta ã làm xong công việc. Trong khi làm việc ấy, ta không thể chú tâm vào

giáo pháp của Đức Phật. Bây giờ ta phải siêng năng thực hành giáo pháp ể bù vào thời gian phí phạm ấy.”

Hai yếu tố liên quan ến cuộc lữ hành 

  1. Vị ấy suy xét như vầy: “Ta phải i xa. Trong khi i xa,  ta khó  chuyên tâm vào giáo pháp của Đức Phật. Ta sẽ cố gắng thực hành giáo pháp trước khi i xa.”
  2. Sau khi ến nơi rồi, vị ấy suy xét: “Ta ã trải qua một chuyến lữ hành. Trong khi thực hiện chuyến i, ta không thể chuyên tâm vào giáo pháp của Đức Phật. Bây giờ ta phải siêng năng thực hành giáo pháp ể bù lại thời gian bỏ phí ấy.”

Hai yếu tố liên quan ến sức khỏe 

  1. Lúc bắt ầu bịnh nhẹ, vị ấy suy xét như vầy: “Ta mới bị bịnh nhẹ; bịnh có thể nặng hơn. Vậy trong lúc này ta phải tranh thủ hành ạo trước khi bịnh trở nên nặng hơn.”
  2. Khi ang bình phục, vị ấy suy xét như vầy: “Ta vừa mới khỏi bịnh; nó có thể tái phát bất cứ lúc nào. Ta sẽ tinh tấn hành ạo trước khi bịnh cũ tái phát.”

Hai yếu tố liên quan ến thọ thực 

  1. Khi vật thực i bát ít ỏi, vị ấy suy xét như vầy: “Ta chỉ nhận ược chút ít vật thực sau khi i bát về.  Bữa ăn ít ỏi sẽ làm cho thân ta ược nhẹ nhàng, linh hoạt, không lười biếng giải ãi. Ta phải cố gắng hành ạo ngay.”
  2. Khi kiếm ược ầy ủ vật thực, vị ấy suy xét như vầy: “Ta i bát về với ầy ủ vật thực. Nó sẽ giúp ta mạnh khỏe ể tinh tấn hành ạo. Ta phải cố gắng hành ạo ngay.”

Đây là tám yếu tố ể tăng cường tinh tấn (viriyārambha-vatthu). Trái ngược với tám yếu tố này, có tám yếu tố khác làm khởi dậy giải ãi (kusīta-vatthu).

Khi phải làm công việc may vá nào ó, vị tỳ khưu trì hoãn viện cớ rằng: “Làm việc này rất mệt, ta sẽ ngủ một giấc cho khỏe rồi làm.” Khi phải i xa, vị ấy cũng viện cớ như vậy.

Khi bắt ầu cảm thấy không khỏe, vị tỳ khưu than phiền về tình trạng khó ở của mình và i ngủ. Khi vị ấy ã có ủ vật thực, vị ấy cũng nằm ngủ vì nặng bụng. Khi may vá xong, hoặc i xa về, hoặc vừa mới khỏi bịnh, hoặc có ít vật thực, vị ấy cũng than phiền: “Mệt quá! Ta sẽ nghỉ một lát.” Bằng cách này, vị tỳ khưu ã viện ủ lý do một cách ngớ ngẩn ể không cố gắng tu tập các phước lành.

Tám viriyārambha-vatthu và tám kusīta-vatthu ược giải rõ ở bài kinh 10-Saṅgīti, Pāthika Vagga của Trường bộ kinh

6. Dựa trên tâm Đại bi (mahā-karuṇā) và Phương tiện thiện xảo trí (upāya-kosalla-ñāṇa) nhẫn nại chịu ựng những hành ộng sai trái của kẻ khác (hoặc theo tạng Abhidhamma, nhóm tâm và những sở hữu khởi sanh trong cách nhẫn nại như vậy, dẫn ầu là sở hữu vô sân (adosa) là Kham nhẫn Ba-la-mật (Khanti Paramī).

(a) Kham nhẫn Ba-la-mật có ặc tánh là chịu ựng bằng sự nhẫn nại; (b) Phận sự của nó là vượt qua cả những cảnh áng yêu và áng ghét. (Người không có pháp nhẫn nại thường khởi tâm tham khi gặp cảnh khả ái; và nổi sân khi gặp cảnh trái ý, nghịch lòng. Người như vậy ược xem là kẻ bị cuốn theo cảnh. Người có pháp nhẫn nại thường vững vàng, kiểm soát ược cả tham lẫn sân. Sự nhẫn nại như vậy ược xem là chiến thắng tất cả mọi cảnh dù thuận hay nghịch). (c) Sự hiện khởi của nó trong tâm hành giả là sự nhẫn nại, chịu ựng ối với cả cảnh thuận lẫn cảnh nghịch; (d) Nguyên nhân gần của nó là thấy rõ thật tánh của các pháp.

7. Dựa trên Mahā-karunāUpāya-kosalla-ñāṇa, việc nói lời chân thật và giữ lời hứa là Chân thật Ba-la-mật (Sacca Paramī). (Theo tạng Abhidhamma, nó là sở hữu giới phần (viratī cetasika) ồng sanh với sở hữu tư (cetanā cetasika) hoặc sở hữu trí tuệ (paññā cetasika) tùy thuộc vào hoàn cảnh).

(a) Chân thật Ba-la-mật có ặc tánh chân thật. (b) Phận sự của nó là làm sáng tỏ úng sự thật. (c) Sự hiện khởi của nó trong tâm hành giả là tánh cao quý, ngọt ngào và dễ chịu. (d) Nguyên nhân gần của nó là sự trong sạch trong hành vi, lời nói và ý nghĩ.

8. Dựa vào Mahā-karunāUpāya-kosalla-ñāṇa, quyết tâm bất di bất dịch theo uổi các việc phước là Chí nguyện Ba-la-mật (Adhiṭṭhāna Paramī). (Theo tạng Abhidhamma, ó là nhóm tâm và sở hữu ồng sanh khởi sanh trong hành ộng quyết ịnh như vậy).

(a) Chí nguyện Ba-la-mật có ặc tánh là sự quyết tâm bất di bất dịch trong việc thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật, sự hy sinh, và thực hành giới như là những tư lương cho sự giác ngộ.  (b) Phận sự của nó là vượt qua những bất thiện pháp ối nghịch với những pháp dẫn ến sự giác ngộ. (c) Sự hiện khởi của nó trong tâm hành giả là tánh kiên ịnh trong việc thực hành viên mãn các pháp dẫn ến giác ngộ. (d) Nguyên nhân gần của nó là những pháp dẫn ến giác ngộ.

  1. Dựa trên Mahā-karunāUpāya-kosalla-ñāṇa, phục vụ cho lợi ích và hạnh phúc của thế gian là Tâm từ Ba-la-mật (Mettā Paramī). Nó là sở hữu vô sân theo ịnh nghĩa của tạng Abhidhamma. (a) Tâm từ Ba-la-mật có ặc tánh là mong ước sự thịnh vượng ến chúng sanh. (b) Phận sự của nó là làm các việc lợi sanh ể hoàn thành mong ước ấy (hoặc) phận sự của nó là oạn trừ chín nguyên nhân của sự oán giận (xem ở chương Nhẫn nại Ba-la-mật, cuốn I phần I, Anudīpanī). (c) Sự hiện khởi của nó trong tâm của hành giả là trạng thái khinh an. (d) Nguyên nhân gần của nó là nhìn tất cả chúng sanh ều áng thương (sự tu tập tâm từ không thể có kết quả nếu người ta nhìn chúng sanh bằng cặp mắt không thân thiện).
  2. Dựa trên tâm Mahā-karunāUpāya-kosalla-ñāṇa, thái ộ vô tư, không thiên vị ối với những chúng sanh áng mến và áng ghét, do ã loại trừ thương và ghét là Hành xả Ba-la-mật (Upekkha Paramī). (Theo tạng Abhidhamma, ó là Sở hữu Hành xả

(tatramajjhattatā) sanh lên trong những cách ấy) (a) Hành xả Ba-lamật có ặc tánh là giữ tâm ở vị trí giữa thương và ghét. (b) Phận sự của nó là có cái nhìn vô tư. (c) Sự hiện khởi của nó trong tâm của hành giả là sự vắng lặng của thương lẫn ghét. (d) Nguyên nhân gần của nó là sự quán xét rằng tất cả chúng sanh ều có nghiệp (kamma) là tài sản riêng của họ.

Mỗi bài mô tả trên về các pháp Ba-la-mật bắt ầu bằng nhóm chữ chỉ iều kiện phải có: “Dựa trên tâm Đại bi (Mahā-karuṇa) và phương tiện thiện xảo trí (Upāya-kosalla-ñāṇa)”. Hai thuộc tánh này hình thành những ức tính cơ bản luôn hiện diện trong dòng tâm của chư vị Bồ tát và chỉ khi nào những hành ộng như dāna, sīla, v.v… ược thực hành dựa trên hai ức này, khi ấy chúng mới ược gọi là Pāramī

6. Những iều kiện cơ bản của các pháp Pāramī?  

Nói tóm tắt, ó là:

(a)   Abhinihāra - Đại nguyện 

(b) Mahā-karuṇa & Upāya-kosalla-ñāṇa – Tâm Đại bi và

phương tiện thiện xảo trí

  1. Buddhabhūmi - Bốn Phật ịa 
  2. Ajjhāsaya - Mười sáu thiên hướng 
  3. Paccavekkhana  ñāṇa - Quán sát trí là trí suy xét về những tai hại của việc không bố thí, v.v...và những lợi ích của việc bố thí v.v...
  4. Carana - Mười lăm loại hạnh  và năm loại thắng trí - Abhiñña, cùng với những nguyên nhân phụ của chúng.

Giải rộng

A.  Abhinihāra – Đại nguyện 

(abhi nghĩa là hướng về Nhất thiết trí; nihāra nghĩa là ‘hướng tâm’ hay ‘chuyên tâm’; nghĩa là sự phát nguyện thành ạt quả vị Chánh ẳng giác).

Ở ây, tám yếu tố cần thiết ể ược thọ ký thành Phật ược mô tả trong Chương nói về ‘Sự xuất hiện hy hữu của một vị Phật’, cuốn I, phần I. 

Trong kiếp sống mà có ầy ủ tám yếu tố (như kiếp của Sumedha), những ý nghĩ sau ây thường xuất hiện trong tâm của chư vị Bồ tát (như bậc trí tuệ Sumedha) mà không khởi dậy trong tâm của bất cứ ai, ngoại trừ những bậc ã có ủ tám yếu tố ấy.

“Sau khi vượt qua ại dương sanh tử luân hồi bằng chính sự cố gắng của ta, ta cũng sẽ cứu ộ chúng sanh. Sau khi ã tự mình thoát khỏi mọi xiềng xích của luân hồi, ta cũng sẽ giải thoát cho chúng sanh. Sau khi ta nhiếp phục các căn, ta cũng sẽ dạy cho chúng sanh cách nhiếp phục các căn; sau khi ã dập tắt các ngọn lửa của phiền não trong chính ta, ta sẽ giúp chúng sanh dập tắt các ngọn lửa trong tâm của họ; sau khi ã ạt ược sự an lạc tối thượng của Niết bàn, ta sẽ giúp chúng sanh hưởng sự an lạc ấy; sau khi ã dập tắt trong chính ta những ngọn lửa của ba luân (phiền não luân, nghiệp luân và dị thục luân), ta sẽ dập tắt những ngọn lửa ấy ang rực cháy trong chúng sanh. Sau khi ã tự mình thanh lọc những nhiễm ô của phiền não bằng sự cố gắng của chính mình, ta sẽ em ến sự thanh tịnh cho chúng sanh; sau khi ã ạt ược trí tuệ về Tứ Thánh ế, ta sẽ dạy Tứ Thánh ế ấy ến chúng sanh (tóm lại, ta sẽ cố gắng trở thành Phật và ộ thoát chúng sanh).”

Như vậy ước nguyện ắc thành Phật quả khởi sanh mãnh liệt, liên tục, là tâm ại thiện (mahā-kusala citta) cùng với những sở hữu ồng sanh của nó; những tâm ại thiện và những sở hữu ồng sanh ấy hướng về Phật quả ược gọi là Đại nguyện (abhinihāra), là iều kiện cơ bản của tất cả mười pháp Ba-la-mật.

Quả thật vậy, chính do sự khởi phát của ại nguyện này mà chư vị Bồ tát mới ược thọ ký thành Phật. Sau khi ược thọ ký rồi, khởi sanh liên tục sự suy xét về các pháp Ba-la-mật; sự quyết tâm thực hành chúng và những sự thực hành cần thiết ể ưa vị ấy ến ỉnh cao của sự thành tựu.

Đại nguyện này có ặc tánh là sự hướng tâm ến Nhất thiết trí. Phận sự của nó là tha thiết cầu Phật quả và sau khi ước nguyện ấy ược xác chứng, hành giả lại mong cầu khả năng em lại lợi ích và hạnh phúc cho chúng sanh cho ến khi họ chứng ắc Niết bàn. Sự hiện khởi của nó trong tâm của hành giả làm nhân cơ bản cho các pháp dẫn ến giác ngộ. Nguyên nhân gần của nó là tâm Đại bi.

Đại nguyện này có cảnh của nó là lãnh vực không thể biết ược dành cho chư Phật và phúc lợi của vô lượng chúng sanh trong hết thảy thế gian vô tận. Như vậy nó áng ược xem là nền tảng cho các hạnh nghiệp như các pháp Ba-la-mật, các pháp hành và các việc thiện áng tôn kính nhất có năng lực vô song.

Năng lực vô song này ược giải tóm tắt như sau:

Ngay sau khi ại nguyện phát khởi, vị Bồ tát sẵn sàng i vào lãnh vực thực hành ể chứng ạt Nhất thiết trí (Mahābodhiyāna paṭipatti). Khi ấy vị Bồ tát quyết ịnh thành Phật. Sự kiên ịnh này trở nên bất thối sau khi ại nguyện ã phát khởi trong tâm vị ấy và nhờ vậy trở thành vị Bồ tát thực thụ. (Một người xứng áng ược danh hiệu ‘Bồ tát’ chỉ khi nào có ược ại nguyện này).

Từ lúc ấy trở i, vị Bồ tát hoàn toàn có khuynh hướng nghiêng về Nhất thiết trí và năng lực thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật, sự dứt bỏ (cāga), các công hạnh (cariya). Như vậy, các pháp dẫn ến giác ngộ ã an trú trong tâm vị Bồ tát.

Vì ã có ại nguyện này nên ạo sĩ Sumedha ã tra xét úng ắn các pháp Ba-la-mật bằng Ba-la-mật Tư trạch trí (Pāramī-pavicaya- ñāṇa). Loại trí này còn ược gọi là Vô sư trí, chính vị ấy có ược mà không cần sự giúp ỡ của người thầy; nó cũng ược gọi là Tự tồn trí (Sayambhū-ñāṇa), là trí dẫn ường ến quả vị Chánh ẳng giác. Sau khi nghĩ suy và quán xét ến các pháp Ba-la-mật một cách rõ ràng và chính xác, vị ấy tinh tấn thực hành viên mãn chúng trong thời gian dài bốn A-tăng-kỳ (asaṅkhyeyya) và một trăm ngàn ại kiếp.

Đại nguyện này có:

  1. Paccaya - Bốn duyên 
  2. Hetu - Bốn nhân 
  3. Bala - Bốn lực

(a) Paccaya - Bốn duyên

  1. Khi vị Đại sĩ phát nguyện thành Phật, trông thấy Đức Phật ang thị hiện song thông, vị ấy suy nghĩ: “Nhất thiết trí có năng lực thật là vĩ ại. Nhờ có ược Nhất thiết trí mà Đức Phật ạt ược bản tánh kỳ diệu, cao siêu và có ược năng lực bất khả tư nghì như vậy.” Sau khi chứng kiến những uy lực của Đức Phật, vị ấy khởi tâm phát nguyện thành Phật.
  2. Dù tự mình không tận mắt trông thấy oai lực vĩ ại của Đức Thế Tôn, nhưng vị ấy nghe người khác nói: “Đức Thế Tôn có những năng lực như vậy, như vậy.” Sau khi nghe thế, vị ấy khởi tâm phát nguyện thành Phật.
  3. Dù vị ấy không chứng kiến, cũng không nghe nói về những oai lực vĩ ại của Đức Thế Tôn, nhưng vị ấy học hỏi ược từ những bài pháp nói về oai lực của Đức Phật. Nhờ học hỏi như vậy, vị ấy khởi tâm phát nguyện thành Phật.

Dù vị ấy không chứng kiến, không nghe người khác nói cũng không nghe thuyết pháp về những oai lực của Đức Thế Tôn, nhưng vốn có thiên hướng cao quý, vị ấy suy nghĩ rằng: “Ta sẽ bảo vệ di sản, dòng dõi, truyền thống và luật lệ của chư Phật.” Do sự tôn kính tột bậc này ối với Pháp (Dhammagaru), vị ấy khởi tâm phát nguyện thành Phật.

(b)     Hetu - Bốn nhân

  1. Vị ại sĩ có pháp nương tựa gần nhất - cận y (upanissaya) là ã từng thực hiện những phước lành ặc biệt của chư Phật quá khứ (phước ặc biệt - adhikāra).
  2. Vị ấy vốn có thiên chất thương xót chúng sanh và sẵn sàng làm vơi dịu khổ au cho chúng sanh dù phải hy sinh cả tánh mạng.
  3. Vị ấy có tinh tấn và sức mạnh ể phấn ấu trường kỳ cho ến khi thành ạt mục tiêu tối thượng là Phật quả; không nản chí trước những au ớn và sầu khổ trong luân hồi hoặc những khó khăn vất vả trong khi làm việc lợi sanh.
  4. Vị ấy hằng vui thích thân giao với bạn tốt, những người bạn này sẽ khuyên ngăn vị ấy không làm iều ác mà nhắc nhở, khuyến khích vị ấy làm các iều thiện.

Trong bốn nhân này, có pháp nương tựa gần nhất (upanissaya sampadā), nghĩa là do ại sĩ ã nguyện trong tâm hoặc nói ra lời trước sự hiện diện của chư Phật quá khứ (kinh sách không nói bao nhiêu vị) vì Phật quả, vị ấy luôn luôn có chí hướng về thành ạt Nhất thiết trí; vị ấy cũng luôn luôn có khuynh hướng làm việc lợi sanh.

Nhờ có pháp nương tựa gần nhất như vậy mà vị ấy có thể phân biệt rất chính xác những ai sẽ trở thành Phật Độc giác (Paccekabuddha) hoặc Thinh văn giác (Bích chi Bồ tát hoặc Thanh văn Bồ tát – Sāvakabodhisatta) qua (a) các quyền (indriya), (b) các pháp hành em lại lợi lạc cho chúng sanh, (c) sự thiện xảo trong việc phục vụ lợi ích ến kẻ khác và biết phân biệt thiện ác (Xứ phi xứ thiện xảo trí - thānāthānakosalla-ñāṇa). (Từ ba ặc tánh này, có thể kết luận rằng chư Bồ tát ã từng làm những phước lành ặc biệt của chư Phật quá khứ).

Nói về sự thân cận bạn tốt, bạn tốt ở ây có nghĩa là những người có tám ức tánh: ức tin, giới, nghe nhiều học rộng, dứt bỏ, tinh tấn, chánh niệm, ịnh và tuệ.

Với ức tin, người bạn tốt có niềm tin vào Nhất thiết trí của Đức Thế Tôn, tin tưởng vào nghiệp của chính mình và quả của nghiệp. Do có ức tin như vậy, vị ấy không từ bỏ ước nguyện vì phúc lợi của chúng sanh. Ước nguyện này là nguyên nhân cơ bản ể thành ạt sự Giác ngộ tối cao.

Là người có giới, vị ấy thân ái với chúng sanh hằng kính trọng vị ấy. Nghe nhiều học rộng, trước hội chúng vị ấy thuyết những bài pháp cao siêu em lại lợi ích và hạnh phúc cho chúng sanh. Thành tựu pháp dứt bỏ, vị ấy thiểu dục, dễ nuôi, không luyến ái theo dục trần, tâm xả ly ối với chúng.

Nhờ tinh tấn, vị ấy luôn cố gắng làm tăng trưởng phúc lợi cho chúng sanh. Là người có chánh niệm, vị ấy không bao giờ bỏ qua những việc phước. Nhờ thành tựu về ịnh, vị ấy là người có tâm tập trung, không tán loạn. Nhờ có trí tuệ, vị ấy hiểu các pháp như thật.

Qua chánh niệm, người bạn tốt xem xét kết quả của những việc phước và những iều tội. Qua trí tuệ, vị ấy hiểu úng iều gì có lợi hoặc có hại ến chúng sanh. Qua ịnh, vị ấy giữ tâm kiên cố, và qua tinh tấn, vị ấy tránh không làm những iều có hại ến chúng sanh và hướng dẫn họ luôn luôn nhiệt tâm cố gắng làm các iều thiện vì sự an lạc của họ.

Nhờ thân cận và nương tựa bạn tốt, là bậc có tám ức tánh như vậy, vị Bồ tát cố gắng tăng cường sự thành tựu của chính mình về pháp nương tựa (upanissaya-sampatti). Bằng trí tuệ trong sáng và sự thanh tịnh tột bậc của hành vi, lời nói ược thành tựu qua những cố gắng kiên trì, vị ấy ắc thành bốn ại lực. Chẳng bao lâu, vị ấy sẽ có ủ tám yếu tố cần thiết cho việc thọ ký. Bồ tát cho thấy khát vọng về ại nguyện (Mahābhinihāra) và an trú vững chắc là một vị Bồ tát thực thụ. Từ ó trở i, vị ấy không còn nguyện vọng nào khác ngoài sự Giác ngộ tối thượng. Vị ấy trở thành con người cao quý với quyết tâm không thay ổi là trở thành vị Chánh biến tri.

                                      (c) Bala - Bốn ại lực

  1. Ajjhattikabala Nội lực: (Chí hướng vô bờ bến cầu Nhất thiết trí hoặc Chánh ẳng giác dựa vào khả năng về thể chất của chính mình, với sự tôn kính Pháp (Dhamma gārava), duyên thứ tư trong bốn duyên ã nêu ra ở trên). Khi vận dụng năng lực này, có sự tự lực và tâm hỗ thẹn tội lỗi, vị Bồ tát phát nguyện cầu Phật quả, thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật và chứng ngộ Tối thượng giác.
  2. Bāhirabala Ngoại lực: (Chí hướng vô bờ bến cầu Nhất thiết trí dựa vào ngoại lực, là ba duyên ầu tiên trong bốn duyên ã mô tả ở trên). Khi sử dụng năng lực này, dựa vào thế giới bên ngoài, ược hỗ trợ bởi sự tự tin và lòng tự hào rằng: “Ta là người có ủ các năng lực ể chứng ắc Phật quả,” vị Bồ tát phát nguyện cầu Phật quả thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật và chứng ngộ Tối thượng giác.
  3. Upanissaya-balaTrợ duyên lực: (Chí hướng dũng mãnh cầu Nhất thiết trí dựa vào duyên ầu tiên trong bốn duyên). Khi sử dụng năng lực này, nhờ có các quyền nhạy bén và sự thanh tịnh tự nhiên, ược hỗ trợ bởi chánh niệm, vị Bồ tát phát nguyện cầu Phật quả, thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật và chứng ngộ Tối thượng giác.
  4. Payoga-bala Tinh tấn lực (Có sự tinh tấn ầy ủ và thích hợp ể chứng ạt Nhất thiết trí, sự theo uổi tận lực và kiên trì của các duyên hỗ trợ và các việc phước). Khi sử dụng năng lực này với sự thanh tịnh của hành vi và lời nói, thường xuyên chuyên tâm vào các việc phước, vị Bồ tát phát nguyện cầu Phật quả, thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật và chứng ạt Nhất thiết trí.

Sau khi ã có ủ bốn duyên, bốn nhân và bốn lực, ến thời kỳ mà vị

Bồ tát ạt ến giai oạn phát triển như trong kiếp của bậc trí tuệ Sumedha, vị ấy có ược tám yếu tố ể ược thọ ký thành Phật. Được thúc ẩy bởi sự thành tựu tám yếu tố này, ại nguyện phát khởi: “Ta sẽ nhiệt tâm phấn ấu không ngừng nghỉ ể ắc thành Phật quả và tiếp ộ chúng sanh.” Đại nguyện (abhinihara) này hình thành iều kiện cơ bản cho tất cả các pháp Ba-la-mật.

Những ức tánh kỳ diệu

Khi ại nguyện (abhinihara)  này ã khởi phát, những ức tánh kỳ diệu sau ây cũng thường trụ trong tâm Bồ tát: (i) vị ấy hằng thương mến tất cả chúng sanh như con ruột của mình; (ii) tâm của vị ấy không bị các pháp bất thiện làm nhiễm ô; (iii) tất cả mọi ý ịnh, hành vi và lời nói của vị ấy ều hướng về lợi ích và hạnh phúc của chúng sanh; và (iv) viên mãn các pháp pāramī, và thực hành pháp xả ly (caga) và các thiện hạnh (cariya). Thay vì bị suy giảm, các pháp ngày càng thuần thục và mạnh mẽ. Nhờ sự sanh khởi của bốn ức tánh kỳ diệu này, vị Bồ tát trở thành người có ‘nguồn’ thiện pháp và ộ lượng cao cả nhất. Kết quả là Ngài trở thành Bậc xứng áng thọ lãnh những vật thí quý trọng, áng là ruộng phước iền vô thượng ể chúng sanh gieo hạt giống phước bằng sự cúng dường và kính trọng tột bậc.

B.Mahā-karunā & Upāya-kosalla-ñāṇa 

          (Tâm Đại bi & Phương tiện thiện xảo trí) 

Tương tự như ại nguyện (abhinihāra), tâm ại bi (mahā-karuna) và phương tiện thiện xảo trí (upāya-kosalla-ñāṇa) cũng hình thành những iều kiện cơ bản cho các pháp Ba-la-mật (hai iều kiện này ã ược bàn kỹ ở trên). Qua hai pháp này, chư vị Bồ tát có thể liên tục làm gia tăng lợi ích và hạnh phúc cho chúng sanh, không quan tâm ến lợi ích của riêng mình. Dù sự thực hành các phận sự của chư Bồ tát vượt xa khả năng của con người bình thường, các Ngài cũng không hề thối chí.

Do tâm ại bi và phương tiện thiện xảo trí luôn hiện hữu trong tâm chư Bồ tát, nên những người ặt niềm tin nơi các Ngài, có sự tôn kính các Ngài, ược gặp các Ngài thường xuyên hoặc luôn tưởng nhớ những ân ức của các Ngài thì lợi ích và hạnh phúc sẽ phát sanh ến họ.

Giải thêm: Về từ bi và trí tuệ, chính do trí tuệ mà Bồ tát chứng ắc Nhất thiết trí, chính do từ bi mà Ngài thực hành các phận sự của một vị Phật. Nhờ trí tuệ, Ngài có thể vượt qua ại dương luân hồi. Do lòng bi mẫn, Ngài cứu ộ chúng sanh. Do trí tuệ, Ngài thông suốt nỗi au khổ của chúng sanh. Do bi mẫn, Ngài cố gắng làm vơi dịu au khổ của họ. Do trí tuệ, Ngài chán khổ au. Do bi mẫn, Ngài chấp nhận au khổ buồn chán ó như là hạnh phúc ể thực hành các công hạnh, ngõ hầu giải thoát chúng sanh. Qua trí tuệ, Ngài ước nguyện Niết bàn. Qua từ bi, Ngài tiếp tục luân chuyển trong luân hồi.

Như vậy, từ bi và trí tuệ lợi ích về nhiều mặt. Hai pháp này không chỉ làm nền tảng cho các pháp Ba-la-mật, chúng còn là iều kiện cơ bản cho ại nguyện cầu Phật quả.

C. Buddhabūmi (Bốn Phật ịa) 

Tương tự như ại nguyện, từ bi và trí tuệ, bốn Phật ịa sau ây làm iều kiện cơ bản cho các pháp Pāramī.

  1. Ussāha: dũng mãnh là sự nỗ lực ể thành tựu các pháp Ba-lamật, sự xả ly (cāga) và các thiện hạnh (cariya).
  2. Ummaṅga: Thượng trí là phương tiện thiện xảo trí (upāya kosalla-ñāṇa)
  3. Avaṭṭhāna: Kiên trụ là quyết ịnh kiên cố trong các pháp hành dẫn ến Phật quả.
  4. Hita cariya: Lợi hành là sự tu tập tâm từ và tâm bi.

Bốn yếu tố này ược gọi là Phật ịa vì chúng dẫn ến sự sanh khởi của Nhất thiết trí.

D. Ajjhāsaya (16 Thiên hướng) 

 (Thiên hướng có nghĩa là khuynh hướng hay tính khí ảnh hưởng ến sự hình thành nhân cách của con người. Về cơ bản, thiên hướng có hai loại: tốt và xấu). Có mười sáu thiên hướng tốt. Đó là thiên hướng về xuất gia - xuất gia ý lạc (nekkhammajjhāsaya), thiên hướng viễn ly - viễn ly ý lạc (pavivekajjhāsaya), thiên hướng vô tham - vô tham ý lạc (alobhajjhāsaya), thiên hướng vô sân - vô sân ý lạc (adosajjhāsaya), thiên hướng vô si - vô si ý lạc (amohajjhāsaya); thiên hướng xuất ly - xuất ly ý lạc (nissaranajjhāsaya), và thiên hướng về mười Pāramī (dānajjhāsaya, sīlajjhāsaya v.v…)

Do có thiên hướng xuất gia mạnh mẽ, các vị Bồ tát thấy sự hiểm nguy trong các dục lạc và ời sống gia ình. Do có thiên hướng viễn ly mạnh mẽ, các Ngài thấy sự hiểm nguy trong oàn thể và ời sống xã hội. Do có thiên hướng mạnh mẽ về vô tham, vô sân và vô si, các Ngài thấy sự hiểm nguy trong tham, sân và si. Do có thiên hướng xuất ly mạnh mẽ, các Ngài thấy sự hiểm nguy trong các cõi. Các pháp Bala-mật không sanh khởi trong người mà không nhìn thấy sự hiểm nguy của tham, sân, v.v... Do ó sáu thiên hướng về vô tham, vô sân, v.v... cũng là những iều kiện của các pháp pāramī.

Cũng vậy, mười thiên hướng về bố thí (dānajjhāsaya) v.v... hình thành những iều kiện của các pháp pāramī. Bố thí ý lạc nghĩa là thiên hướng thường xuyên bố thí qua sức mạnh của vô tham, nhờ thấy sự hiểm nguy trong các pháp ối nghịch của nó.

Do thiên hướng mạnh mẽ về vô tham, chư Bồ tát thấy sự hiểm nguy trong các pháp ối nghịch của nó như bỏn xẻn, vì thế dẫn ến sự thực hành viên mãn Bố thí Ba-la-mật. Do thiên hướng mạnh mẽ về Giới, các Ngài thấy sự hiểm nguy trong việc suy ồi ạo ức, và vì thế mà thực hành viên mãn Giới Ba-la-mật. Cách suy xét như vậy áp dụng các pháp Ba-la-mật còn lại.

Nên ặc biệt lưu ý rằng những pháp ối nghịch với thiên hướng xuất gia là dục lạc và ời sống gia ình; ối nghịch với trí tuệ là si mê (moha) và hoài nghi (vicikicchā); ối nghịch với tinh tấn là lười biếng (kosajja), giải ãi; ối nghịch với nhẫn nại là không kham nhẫn, oán giận (akkhanti, dosa); ối nghịch với chân thật là nói dối; ối nghịch với chí nguyện là sự không quyết tâm (không vững vàng trên con ường hành thiện); ối nghịch với từ ái là ác ý; ối nghịch với hành xả là sự dính mắc theo những pháp thăng trầm của thế gian.

Do thiên hướng mạnh mẽ về Hành xả, chư Bồ tát thấy mối nguy hiểm trong các pháp ối nghịch với nó, ó là sự cột trói theo các pháp thăng trầm của thế gian, nên các Ngài thực hành viên mãn Hành xả Ba-la-mật. Bằng cách này, mười thiên hướng về các pháp Ba-la-mật cũng hình thành iều kiện của các pháp pāramī.

E.  Paccavekkhana ñāṇa (Quán sát trí)

Trí xem xét về những iều bất lợi do không thực hành mười pháp Ba-la-mật như bố thí, trì giới v.v… và những iều lợi ích nhờ thực hành viên mãn mười pháp Ba-la-mật. 

(Những ai có chí nguyện thành Phật nên nghiên cứu kỹ lưỡng về phần này).

1. Phương pháp suy xét chi tiết về Bố thí Ba-la-mật  

“Những vật sở hữu như vàng, bạc, gia súc, trâu bò, tôi nam tớ nữ, vợ con, v.v... em lại tai họa to lớn cho chủ nhân của chúng, những người luyến ái với chúng. Vì chúng là những ối tượng khả ái ược mọi người ưa thích nên chúng có thể bị lấy mất hoặc bị hoại bởi năm loại kẻ thù (nước, lửa, vua quan, trộm cướp và những người thừa kế sa ọa), chúng gây ra những cuộc cải vả và tranh chấp. Chúng không có thực tánh. Việc thâu ạt và bảo vệ chúng ắt phải có sự khuấy rối người khác. Sự tiêu hoại của chúng dẫn ến au khổ khốc liệt như sầu, bi, v.v... Do chấp thủ chúng mà những người bỏn xẻn (macchariya) phải bị tái sanh vào khổ cảnh. Như vậy, những vật sở hữu này em lại nhiều tai họa cho chủ nhân qua nhiều cách. Bố thí chúng, xa lìa chúng, từ bỏ chúng là cách thoát ly duy nhất ể i ến hạnh phúc. Vị Bồ tát quán theo cách này và thực hành chánh niệm ể phát triển việc thực hành bố thí.

Vị Bồ tát cũng quán xét như vầy, bất cứ khi nào có người ến khất thực: “Đây là người bạn rất thân ái, thường giải bày với ta tất cả những bí mật riêng tư của vị ấy. Vị ấy hướng dẫn ta cách em theo bên mình – bằng phương tiện bố thí, em tài sản sang những kiếp sau. Nếu không bằng cách này thì ta phải bỏ lại tất cả tài sản trên thế gian này. Đây là người bạn vĩ ại giúp dời i tài sản của ta từ thế gian này, như một ngôi nhà ang rực cháy bởi ngọn lửa của thần chết, ến một nơi an toàn. Đối với ta, vị ấy như kho chứa an toàn những tài sản của ta, tránh khỏi sự thiêu ốt tiêu vong” và “Vị ấy là người bạn tốt nhất vì tạo iều kiện cho ta làm việc bố thí, vị ấy giúp ta ạt ược những pháp chứng ắc khó nhất và thù thắng nhất, ó là sự thành tựu bốn Phật ịa (Buddhabhūmi).

Bồ tát cũng suy xét như vầy: “Người này ã em lại cho ta cơ hội làm công việc cao quý nhất. Do ó, ta nên nắm bắt cơ hội này, không lơ ễnh. Mạng sống của ta chắc chắn sẽ kết thúc. Do ó, ta nên bố thí ngay cả khi không ai hỏi xin, (quả thật ta nên làm) nhiều hơn ngay cả khi có người hỏi xin. Chư Bồ tát có khuynh hướng mạnh mẽ về bố thí thường tìm người thọ vật thí. Trong trường hợp của ta, người ăn xin ã tự ý ến ể nhận vật thí của ta vì phước của ta. Hành ộng bố thí ược thể hiện ến người nhận, úng với bản chất của nó nhưng sự bố thí chỉ em lại lợi ích cho ta mà thôi. Ta sẽ em lợi ích ến tất cả chúng sanh này giống như là em cho ta vậy. Làm sao ta có thể thực hành viên mãn Bố thí Ba-la-mật nếu không có ai thọ lãnh vật thí của ta? Ta chỉ kiếm ược và tích lũy ược tài sản khi có người ến xin ta. Khi nào họ sẽ ến và tự do sử dụng tài sản của ta tùy thích mà không cần xin ta? Bằng cách nào ể ta kết thân với những người thọ lãnh và làm sao ể họ thân thiện với ta. Ta sẽ hoan hỷ như thế nào trong khi bố thí và sau khi bố thí? Làm sao ể ta biết tâm của họ và cho họ những gì họ cần mà họ không cần hỏi? Khi ta có vật thí và người thọ vật thí, nếu ta không cho họ thì ó là sự dối gạt to lớn ối với ta. Ta sẽ dứt bỏ tứ chi và mạng sống như thế nào ể cho chúng ến những người cần?” Bồ tát nên thường xuyên phát triển thiên hướng bố thí như vậy.  

Cũng như loài côn trùng (kīṭaka) nhảy trở lại với người quăng nó mà không chút quan tâm, những quả thiện sẽ trở lại với người ã bố thí dồi dào mà không mong mỏi quả phước. Bằng cách quán như vậy, vị Bồ tát nên phát triển tâm không ao ước, không mong mỏi chút quả nào từ việc phước của mình (quả ở ây là hạnh phúc của cõi chư thiên và nhân loại, không phải sự chứng ắc Phật quả).

Thái ộ lúc bố thí cúng dường

Khi người thọ thí là người thân quen, vị ấy nên vui mừng suy xét như vầy: “Người ến xin ta là người thân quen.” Nếu người thọ thí không thân quen, vị ấy nên vui mừng suy xét: “Do sự cúng dường này, chắc chắn ta sẽ có ược sự thân thiết với vị ấy.” Nếu người thọ thí là kẻ thù, vị ấy nên ặc biệt vui mừng suy xét như vầy: “Kẻ thù của ta ã khất thực, do sự cúng dường này chắc chắn vị ấy sẽ trở thành người thân thiết với ta.” 

Như vậy, vị ấy nên cúng dường ến người lạ hoặc kẻ thù giống như ến người thân quen bằng tâm bi mẫn do từ ái dẫn ầu.

Khi gặp khó khăn lớn

Nếu người có chí nguyện thành Phật nhận thấy mình quá luyến ái với những vật cúng dường, không thể từ bỏ ược do sự tham luyến với chúng ã ăn sâu trải qua thời gian dài, vị ấy nên suy xét như vầy: “Hỡi con người tốt, có chí nguyện thành Phật, khi ngươi ã phát nguyện ắc thành Phật quả, ể tiếp ộ chúng sanh, ngươi ã từ bỏ cả thân mạng của mình. Giờ ây, ngươi lại luyến ái với những vật ngoài thân giống như việc tắm rữa của con voi. Cũng vậy, ngươi không nên ái luyến bất cứ vật gì.” 

(Những con vật khác tắm rữa ể làm sạch thân của chúng, loài voi tắm không phải ể làm sạch thân của chúng, mà ể phát nát hoa sen, chồi sen và ngó sen ở trong hồ. Việc tắm rữa của con voi không em lại lợi ích gì. Sự luyến ái với những vật ngoài thân không có kết quả gì, không em lại lợi ích cho việc chứng ắc Phật quả).

Giả sử có một cây thuốc. Những ai cần rễ của nó thì lấy rễ. Những ai cần nhánh, vỏ, thân, lá, hoa, quả của nó thì lấy bất cứ thứ gì họ cần. Dù bị lấy i vỏ, thân, rễ, v.v... cây thuốc cũng không thương tiếc mà nghĩ: “Họ ã tước mất những vật sở hữu của ta.”

Cũng thế, vị Bồ tát nên suy xét như vầy: “Ta, người ã xả thân làm việc lợi sanh, không nên nuôi dưỡng ngay cả một mảy may ý nghĩ sai lầm trong việc phục vụ người khác bằng cách sử dụng tấm thân bất tịnh, au khổ và bội bạc này. Bốn ịa ại dù ở trong thân hoặc ngoài thân, tất cả ều phải bị tan rã, tiêu hoại. Không có sự khác biệt giữa tứ ại trong thân và tứ ại ngoài thân. Nếu không nhận biết như vậy, ý nghĩ chấp thủ tấm thân này: “Thân này là của ta, thân này là ta, thân này là tự ngã của ta.” Rõ ràng là ý nghĩ vô minh. Bởi vậy, không quan tâm ến tay, chân, thịt và máu, giống như những vật ngoài thân, ta nên sẵn sàng cho i cả tấm thân này với ý nghĩ rằng: “Ai cần thứ gì trong thân này, cứ tùy ý lấy i.”

Khi vị ấy suy xét như vậy, không quan tâm ến mạng sống và tứ chi của mình, từ bỏ chúng vì sự giác ngộ tối thượng, hành vi, lời nói và ý nghĩ ngày càng thanh tịnh hơn. Vị Bồ tát ã có sự thanh tịnh về thân, khẩu, ý và như vậy sẽ an trú trong chánh ạo dẫn ến Niết bàn. Vị ấy cũng có ược sự thành tựu về trí tuệ phân biệt iều gì tổn hại và iều gì có lợi ích. Kết quả là vị ấy trở thành người có khả năng phụng sự chúng sanh càng ngày càng nhiều hơn bằng những vật thí tốt ẹp (vatthu dāna), những vật thí vô hại (abhayadāna) và cả sự bố thí về pháp (dhammadāna). (Đây là cách suy quán chi tiết của vị Bồ tát về Bố thí Ba-la-mật).

2. Phương pháp suy xét chi tiết về Giới Ba la mật

“Giới là loại nước chánh pháp có thể rửa sạch những phiền não trong tâm, là loại ô nhiễm mà không thể dùng nước sông Hằng hay bất cứ loại nước nào ể rửa sạch chúng. Giới là loại lương dược oạn diệt cơn sốt của dục vọng trong khi các loại thuốc khác như bột hoàng àn, v.v... không thể làm vơi dịu nó ược. Giới là vật trang sức của những bậc trí tuệ mà loại trang sức của người bình thường như vòng cổ, dây chuyền, hoa tai, v.v... không thể sánh ược.

Đó là loại hương tự nhiên bay khắp muôn phương và thơm ngát mọi lúc mọi nơi. Đó là loại bùa trói buộc (vasikaraṇa mantra) có năng lực khiến cho hàng thượng sanh như vua chúa, Bà-la-môn, chư thiên cùng Phạm thiên, v.v… phải tôn kính lễ bái. Giới là bậc thang ể bước lên cõi chư thiên và Phạm thiên. Giới là phương tiện ể chứng ắc thiền và các Thắng trí; là ại lộ dẫn ến ại kinh ô Niết bàn, là nền tảng của ba hình thức Giác ngộ. Vì Giới làm thành tựu tất cả những iều mà người ta mong ước nên Giới quí hơn cả ngọc như ý (cintamani) và cây như ý (kappa rukkha). Vị Bồ tát suy xét những ức tánh của Giới như thế.

(Chú giải giới thiệu bài kinh Aggikhandhopam, v.v... ể suy xét về các tội do không có giới. Sau ây là phần tóm tắt của bài kinh Aggikhandhopama ược nêu ra ở chương Sattaka Nipāta, Aṅguttara Nikāya (Tăng chi bộ).

Một thuở nọ khi Đức Phật ang trên ường i về miền quê của nước Kosala, có nhiều vị tỳ khưu tháp tùng, Ngài trông thấy một khối lửa ang rực cháy ở một chỗ nọ. Đức Phật rời khỏi con ường chính ến ngồi dưới một gốc cây, trên tấm y bốn lớp do ại ức Ānanda trải sẵn.

Rồi Đức Phật nói với các vị tỳ khưu:

  1. Này các tỳ khưu, các ngươi hãy xem bên nào tốt hơn: ngồi và nằm ôm lấy khối lửa hừng ỏ hay ngồi và nằm ôm lấy cô thiếu nữ thượng lưu, có thân mềm khả ái, ầy khoái lạc khi chạm vào? Các vị tỳ khưu (thiếu trí) trả lời rằng ôm cô thiếu nữ thì tốt hơn.

Đức Phật giải thích: Đối với người có Giới, thà ngồi và nằm ôm lấy ngọn lửa hừng cháy ỏ vì nó chỉ làm khổ ta trong một kiếp thôi, trong khi ôm lấy cô thiếu nữ thì sẽ ưa ta xuống các khổ cảnh.

Ngài tiếp tục hỏi các vị tỳ khưu:

  1. Bên nào tốt hơn: bị một người àn ông mạnh khỏe cầm cây roi da ánh vào ôi chân của mình cho ến khi xương, thịt và da ều bầm nát hay vui thích trong sự lễ bái, cúng dường của àn-na tínthí?
  2. Bên nào tốt hơn: ể một người àn ông mạnh khỏe cầm cây lao âm xuyên ngực của mình hay vui thích trong sự lễ bái, cúng dường của àn-na tín-thí ?
  3. Bên nào tốt hơn: ể một người àn ông mạnh khỏe cầm ĩa sắt nóng ỏ ắp lên người của mình hay mặc vào chiếc y do àn-na tín-thí cúng dường?
  4. Bên nào tốt hơn: há miệng ra và nuốt vào bụng cục sắt nóng ỏ hay ăn vật thực do àn-na tín-thí cúng dường?
  5. Bên nào tốt hơn: ể cho một người àn ông mạnh khỏe nắm lấy ầu hoặc vai và è ta xuống trên cái lò sắt cháy ỏ hay nằm, ngồi trên chiếc giường do àn-na  tín-thí thí cúng dường?

(vii)Bên nào tốt hơn: ể một người àn ông mạnh khỏe cầm chân treo ngược ta lên và ném ta vào trong cái chảo sắt nóng chảy ang sôi sục hay trú ngụ trong tịnh xá do àn-na tín-thí cúng dường?

Đối với câu hỏi này, các vị tỳ khưu (thiếu trí) ều trả lời giống như câu trả lời ở câu hỏi ầu tiên. Đức Phật ưa ra các câu trả lời giống như câu trả lời ầu tiên của Ngài. Nghĩa là ối với người có Giới, thà ể người ta ánh vào chân cho bể nát, âm xuyên qua ngực, v.v... vì chúng chỉ gây au khổ trong một kiếp thôi. Trong khi ó, vui thích trong sự lễ bái cúng dường của àn-na tín-thí, ôm cô gái trẻ, v.v... sẽ ưa ta xuống các khổ cảnh ầy cực hình au ớn trong nhiều kiếp.

Đức Phật kết thúc thời pháp bằng những lời sau ây:

Để em lại lợi ích cao nhất cho những người tín thí ã dâng cúng tứ sự và giúp cho ời sống của vị tỳ khưu trong Tăng oàn ược dễ dàng, vị tỳ khưu nên chuyên tâm thực hành Tam học [Sikkhā -Tăng thượng Giới học (adhisīla sikkhā), Tăng thượng Tâm học (adhicitta sikkhā) và Tăng thượng Tuệ học (adhipaññā sikkhā)]. Vị tỳ khưu mong mỏi lợi ích cho chính mình cũng như cho người khác, phải thường xuyên nhiệt tâm chánh niệm.

Cuối thời pháp, sáu mươi vị tỳ khưu nôn ra máu nóng, sáu mươi vị tỳ khưu phạm giới nhẹ thì xin hoàn tục, sáu mươi vị tỳ khưu có phạm hạnh trong sạch thì chứng ắc ạo quả A-la-hán. 

(Đây là bài tóm tắt của bài kinh Aggikhandhopama)

Cũng nên suy xét về các ức tánh của Giới theo cách này như vầy:

“Người có Giới hoan hỷ trong ý nghĩ: ‘Ta ã thực hiện việc thiện lành bảo vệ người ta tránh khỏi iều tai hại.’ Vị ấy không phải trách mình hoặc bị các bậc trí tuệ chê trách. Với vị ấy, không thể có cực hình hay sự tái sanh vào khổ cảnh. Vị ấy ược các bậc trí tuệ khen ngợi rằng: “Người này có Giới và có thiện hạnh. Không giống như người không giới hạnh, vị ấy hoàn toàn thoát khỏi sự ăn năn, hối hận.”

Vì Giới là nguyên nhân chính của chánh niệm, em lại nhiều lợi ích như ngăn chặn sự mất mát tài sản (bhogavyasana) v.v... và vì Giới oạn diệt các bất thiện pháp nên nó là nguồn tài sản quý nhất và cũng là nguồn hạnh phúc của chúng sanh.

Dù thuộc giai cấp bần cùng nhưng là người có giới, anh ta vẫn nhận ược sự tôn kính và lễ bái từ những người quí tộc, thượng lưu, vua quan, Bà-la-môn, v.v... Như vậy sự thành tựu của Giới vượt trội dòng tộc hoặc ịa vị xã hội.

Tài sản của Giới vượt trội tài sản vật chất bên ngoài vì nó không thể bị nguy hiểm bởi năm loại kẻ thù. Giới i theo người ta sang kiếp sau.

Giới có lợi ích to lớn và làm nền tảng cho ịnh và tuệ.

Ngay cả những người ược gọi là nhà cai trị trong thế gian cũng không thể kiểm soát tâm của họ. Chỉ những người có Giới mới kiểm soát ược tâm của họ (cittissariya). Do ó, Giới cao quý hơn cả quyền bá chủ, v.v... Những người có Giới ạt ược ức tánh tự chủ (issariya) trong những kiếp sống của họ.

Giới cao hơn cả chính mạng sống, vì Đức Phật dạy rằng sống một ngày có Giới tốt hơn sống cả trăm năm mà không có Giới, và sống mà không có Giới thì xem như ã chết.

Vì chính kẻ thù cũng kính trọng người có Giới và vì vị ấy không thể bị già, bịnh và các iều rủi ro tai hại lấn lướt, nên Giới vượt lên cả vẻ ẹp sắc thân của vị ấy. Vì Giới là nền tảng cho các trạng thái hạnh phúc của chư thiên hoặc Niết bàn, nên nó cao quí hơn các tòa lâu ài và cung iện hoặc ịa vị cao nhất trong thế gian như vua, quan hoặc thái tử.

Giới quí hơn cả quyến thuộc và bạn bè, là những người hằng mong mỏi hạnh phúc ến ta vì nó thực sự ẩy mạnh lợi ích và hạnh phúc của ta, và còn theo sát ta sang kiếp sau.

Giới làm kẻ bảo vệ thân này tránh khỏi bốn loại binh chủng hoặc các thứ ộc hại như bùa chú, thuốc ộc, v.v....

Khi người ta suy xét rằng: “Giới có ầy ủ vô số ức tánh” thì Giới chưa hoàn hảo của vị ấy sẽ trở nên hoàn hảo hoặc Giới bất tịnh của người ấy sẽ trở nên thanh tịnh.

Nếu trạng thái giận ghét trong dòng tâm của vị ấy ối nghịch với Giới và luôn cứ tăng lên với người có chí nguyện thành Phật, vị ấy nên suy xét như vầy: 

“Không phải rằng ngươi ã phát nguyện thành ạt A-la-hán ạo và Nhất thiết trí sao? Nếu Giới của ngươi bị khiếm khuyết thì ngươi không thể hưng thịnh ngay cả những vấn ề trong thế gian, nói chi ến pháp siêu thế gian, Nhất thiết trí mà ngươi ã ước nguyện là thành quả cao nhất. Vì Giới là nền tảng của Nhất thiết trí nên Giới của ngươi phải có phẩm chất rất cao. Do ó, ngươi phải là người quan tâm nhiều ến Giới.”

Hoặc “Ngươi nên thuyết pháp và tế ộ chúng sanh bằng ba chiếc xe có những ặc tánh như vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anatta). Ngươi cũng nên giúp chúng sanh chưa cụ túc về ngũ căn (tín, tấn, niệm, ịnh và tuệ) ược cụ túc. Như sự chữa trị của bác sĩ cho lầm toa, sự chữa trị ấy không áng tin cậy, cũng vậy lời nói của người không có Giới không ược nhiều người tin tưởng. Do ó, khi suy xét ể làm người áng tin cậy, ngõ hầu giúp chúng sanh ạt ến sự cụ túc các quyền của họ, ngươi phải có Giới trong sạch.”

Hơn nữa, “Chỉ khi nào ta có những ức tánh ặc biệt như các pháp chứng về thiền, v.v... khi ấy ta mới có thể giúp ỡ kẻ khác và thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật như Trí tuệ, v.v....Và những ức tánh ặc biệt như các pháp chứng về thiền, v.v...  không thể xảy ra nếu không có Giới thanh tịnh. Do ó, ngươi phải là người có Giới thanh tịnh tự nhiên.

Suy xét như vậy, vị Bồ tát nên nhiệt tâm phấn ấu ể làm cho Giới của mình ược thanh tịnh.

(Đây là cách suy xét chi tiết về Giới Ba-la-mật)

3. Phương pháp suy xét chi tiết về Xuất gia Ba la mật

Vị Bồ tát nên quán xét về những iều bất lợi của ời sống gia ình - trói chặt người ta trong các bổn phận ối với vợ và con, và những lợi ích của ời sống xuất gia, giống như hư không tự do và thênh thang, không bị trói buộc bởi các phận sự như vậy.

Như ã giải thích trong bài kinh Dukkhakkhandha, trong Majjhima Nikāya, ta nên trú trong sự thật rằng các cảnh dục em lại nhiều ưu phiền và than thở hơn sự thọ hưởng, v.v.... Do thôi thúc của dục, trong khi cố gắng tìm kiếm các cảnh dục, người ta phải trải qua nhiều au khổ do tiếp xúc với nóng, lạnh, ruồi, muỗi, gió, nắng, các loài bò sát, rận rệp, v.v.... Sự au ớn và thất vọng khi khổ công vất vả tìm kiếm dục lạc chấm dứt bằng con số không. Sự bồn chồn, lo âu cho sự an toàn của dục lạc trước năm loại kẻ thù sau khi ã có ược chúng. Sự au khổ vô tận do những cuộc chiến tranh kinh khiếp gây ra vì lòng tham ối với các cảnh dục. Ba mươi hai loại cực hình (kamma karana) trong cuộc sống này, dành sẵn cho những người phạm tội do lòng ham muốn dục lạc. Sự au ớn kinh khủng ở kiếp sau trong bốn khổ cảnh.

(Đây là cách quán chi tiết về Xuất gia Ba-la-mật)

4. Phương pháp suy xét chi tiết về Trí tuệ Ba la mật

“Không có Trí tuệ thì các pháp Ba-la-mật như bố thí, trì giới, v.v... không thể thanh tịnh ược; và Tư trong bố thí, Tư trong trì giới, v.v... không thể làm phận sự của chúng ược. Bằng cách này, ta nên suy xét về các ức tánh của Trí tuệ.

Không có mạng sống thì guồng máy thân thể này mất i ý nghĩa của nó và không thể làm úng phận sự. Không có tâm thức thì các căn như mắt, tai, v.v... không thể làm phận sự thấy, nghe, v.v.... Cũng vậy, tín quyền, tấn quyền, v.v... không thể làm phận sự riêng của chúng một cách khả quan nếu không có Trí tuệ. Do ó, Trí tuệ là nguyên nhân chính yếu cho sự thành tựu các pháp Ba-la-mật như bố thí, v.v...

Cách mà Trí tuệ giúp thành tựu các pháp Ba la mật khác

  1. Bởi vì chư Bồ tát giữ con mắt trí tuệ của các Ngài luôn luôn mở ra, ngay khi cho i tứ chi và các bộ phận thân thể, các Ngài bố thí mà không khen mình hoặc chê người. (Như ã nói ở trên) giống

như cây thuốc lớn, các Ngài bố thí mà không sanh khởi những ý nghĩ sai lạc, và luôn luôn có sự hoan hỷ trong cả ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai. 

Chỉ khi nào có Trí tuệ người ta mới có ược phương tiện thiện xảo trí và bố thí vì lợi ích của kẻ khác. Và chỉ hành ộng bố thí như vậy mới là Ba-la-mật thật sự. (Không có trí tuệ, người ta có thể bố thí với ộng cơ tự lợi, hành ộng bố thí vì lợi ích của riêng mình như vậy giống như việc cho vay lấy lãi).

  1. Giới bị tham, sân, v.v... lấn lướt nếu không có Trí tuệ thì không thể ạt ược thanh tịnh, ừng nói ến việc làm nền tảng cho Nhất thiết trí.
  2. Chỉ những người có Trí tuệ mới nhìn thấy những phiền toái của ời sống gia ình và những lợi lạc của ời sống Sa-môn, những tội lỗi trong các dục lạc và những lợi lạc trong việc chứng thiền, các tội lỗi trong luân hồi và những lợi lạc của Niết bàn. Thấy như vậy, vị ấy ra i sống ời không nhà, chứng thiền và tự mình giác ngộ Niết bàn. Rồi vị ấy cũng có thể giúp người khác xuất gia, an trú trong thiền và Niết bàn.
  3. Tinh tấn mà không có trí tuệ là tà tinh tấn; nó không em lại mục ích mong muốn (không phấn ấu tốt hơn tà tinh tấn). Khi có trí tuệ i kèm, sự tinh tấn sẽ i úng ường dẫn ến mục ích mong muốn.
  4. Chỉ người có trí tuệ mới có thể nhẫn chịu những iều sái quấy do kẻ khác làm. Đối với người không trí tuệ, những hành ộng xúc phạm của kẻ khác làm cho vị ấy khởi tâm bất thiện như nóng giận, v.v... ối nghịch với nhẫn nại. Đối với người có trí tuệ, những hành ộng sái quấy như vậy giúp cho vị ấy tu tập pháp nhẫn nại và phát triển pháp ấy ngày càng mạnh hơn.
  5. Chỉ người có trí tuệ mới thấu hiểu ba sự thật úng với bản chất của chúng: ly vọng ngữ ế (viratī sacca), ngữ ế (vacī sacca) và trí ế (ñāṇa sacca), những nguyên nhân và những pháp ối nghịch của chúng. Sau khi ã tự mình thấu hiểu chúng (bằng cách oạn trừ iều nên oạn trừ và tu tập iều nên tu tập), vị ấy có thể giúp kẻ khác i úng con ường của chân lý.
  6. Sau khi ã củng cố chính mình bằng sức mạnh của Trí tuệ. Bậc trí tuệ thành tựu ược ịnh tâm. Với tâm ược tập trung, sự quyết tâm kiên cố thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật có thể xảy ra.
  7. Chỉ người có trí tuệ mới có thể hướng những ý nghĩ từ ái của vị ấy ến ba hạng người mà không phân biệt họ là thân, thù hoặc không thân không thù.
  8. Và chỉ người có trí tuệ mới có thể duy trì trạng thái xả trước những pháp thăng trầm của cuộc sống (dù tốt hoặc xấu) mà không bị ảnh hưởng bởi những pháp ấy.

Bằng cách này, vị ấy nên suy xét về những ức tánh của trí tuệ, biết nó là nguyên nhân cho sự thanh tịnh của các pháp Ba-la-mật.

Hoặc vị Bồ tát tự khuyên mình như vầy: “Không có trí tuệ thì không thể có tri kiến hoàn hảo và thanh tịnh. Không có tri kiến hoàn hảo và thanh tịnh thì không thể có giới hoàn hảo và thanh tịnh. Không có giới hoàn hảo và thanh tịnh thì không có ịnh hoàn hảo và thanh tịnh. Không có ịnh thì người ta không thể quyết ịnh làm iều lợi ích cho mình, nói chi cho kẻ khác. Do ó, trong khi thực hành các pháp Ba-la-mật ể em lại lợi ích và hạnh phúc cho kẻ khác, ngươi phải nỗ lực cố gắng trau dồi trí tuệ.”

Vì do năng lực của trí tuệ mà vị Bồ tát ược an trú trong bốn Trụ xứ - Caturadhitthāna: tuệ xứ (paññā), ế xứ (sacca), thí xứ (dāna) và tịch tịnh trụ xứ (upasama)  em lại lợi ích cho tất cả chúng sanh bằng bốn Nhiếp sự (catu saṅgaha vatthu): bố thí (dāna), ái ngữ (peyya vajja), lợi hành (attha cariya) và ồng sự (samānattata), giúp chúng sanh an trú trên con ường giải thoát và khiến ngũ quyền: tín, tấn, niệm, ịnh và tuệ của họ ược trưởng thành.

Cũng vậy, do năng lực của trí tuệ mà vị ấy chuyên tâm vào việc suy xét các thực tại cùng tột như uẩn (khandha), xứ  (āyatana) v.v... và nhờ vậy hiểu úng các tiến trình của luân hồi và sự chấm dứt của nó. Bồ tát gắng sức ưa những việc phước của mình như Bố thí Ba-la-mật v.v... ến mức ộ lợi ích nhất và thọ hưởng những lợi lạc của Đạo và Quả. Như vậy, Bồ tát hành ạo ể hoàn thành và viên mãn con ường tu tập của chư vị Bồ tát.

Nhờ thấy rõ nhiều ức tánh của trí tuệ theo cách này, vị ấy nên thường xuyên tu tập Trí tuệ Ba-la-mật.

(Đây là cách suy xét chi tiết về Trí tuệ Ba-la-mật)

5. Phương pháp suy xét chi tiết về Tinh tấn Ba la mật

Ngay cả việc theo uổi những vấn ề trong thế gian mà kết quả của chúng có thể thấy trước, người ta cũng không thể ạt ược mục ích mong muốn nếu không có sự tinh tấn cần thiết. Nhưng với người có sự tinh tấn không mệt mỏi thì không có iều gì mà anh ta không thể ạt ược. Ta nên suy xét như vầy: “Người thiếu tinh tấn không thể bắt ầu công việc cứu ộ chúng sanh ra khỏi cơn lốc của luân hồi. Người có tinh tấn trung bình sẽ làm công việc ấy nhưng nửa chừng thì bỏ dở, không thể i ến ích. Chỉ người có tinh tấn thắng ưu, quan tâm ến sự hoàn thành nhiệm vụ, không quan tâm ến lợi ích của riêng mình, sẽ giác ngộ mục ích tối thượng là Nhất thiết trí.

Lại nữa, nếu không có tinh tấn ầy ủ thì ngay cả những người có chí nguyện thành ạt quả vị Thanh văn giác hoặc Phật Độc giác, muốn giải thoát chính mình ra khỏi luân hồi cũng không thể ạt ược mục ích giác ngộ như mong muốn. Làm thế nào một người có chí nguyện thành bậc Chánh ẳng giác có thể tế ộ toàn thể thế gian cùng với chư thiên và Phạm thiên nếu không có sự tinh tấn ầy ủ?

Một ội binh phiền não như tham, sân, v.v... khó iều phục như những con voi ang trong thời kỳ ộng dục. Các nghiệp (kamma) sanh lên từ những phiền não này, giống như những ao phủ cầm những thanh gươm sẵn sàng giết chết tội nhân. Bốn cõi khổ do những nghiệp này gây ra luôn luôn mở rộng những cánh cửa của chúng. Những bạn ác luôn ở quanh ta ể xui khiến ta phạm vào những nghiệp này và ưa ta ến bốn cõi khổ. Bản tánh của kẻ phàm phu thiếu trí là dễ nghe theo những lời khuyên xấu của ác hữu. Do ó, ta nên giữ mình tránh xa những bạn ác, những kẻ ngụy biện cho những hành ộng sai lầm rằng ‘Nếu sự giải thoát khỏi luân hồi là có thật, thì tự nhiên người ta sẽ ạt ược nó mà không cần cố gắng’. Chỉ do năng lực của tinh tấn, người ta mới có thể oạn trừ những quan iểm sai lầm như vậy.

Hoặc “Nếu Phật quả có thể ạt ược qua sự cố gắng của tự thân, thì khó khăn nào dành cho người có sự tinh tấn như ta.”

(Đây là cách suy xét chi tiết về Tinh tấn Ba-la-mật)

6. Phương pháp suy xét chi tiết về Nhẫn nại Ba-la-mật

“Nhẫn nại loại trừ sân hận là  pháp ối nghịch với tất cả các thiện pháp và nó cũng là khí giới bất bại của các thiện nhân trong việc tu tập các thiện pháp. Nhẫn nại cũng là vật trang sức của chư Bồ tát, những bậc có thể iều ngự kẻ khác, là sức mạnh của các bậc Sa-môn và Bàla-môn, là dòng nước mát dập tắt ngọn lửa sân hận, là lá bùa hộ mạng làm vô hiệu hóa những lời thô thiển hung dữ của những kẻ ác, là thiên hướng tự nhiên của những bậc ã an trú trong pháp thu thúc và của những bậc có trí tuệ tối cao.” 

“Nhẫn nại là căn quyền sâu như ại dương, là bờ biển ngăn chặn mọi cơn sóng của ại dương, là cánh cửa chặn lại con ường i xuống khổ cảnh, là chiếc thang ể bước lên các cõi chư thiên và Phạm thiên, là thánh ịa nơi mà các thiện pháp ngự trị, là sự thanh tịnh cao nhất của thân ngữ và ý.” Vì thế chúng ta nên suy xét về các ức tánh của nhẫn nại. 

Lại nữa, pháp nhẫn nại nên ược tu tập một cách thường xuyên, bằng cách quán xét: “Vì không trú trong pháp nhẫn nại là pháp em lại an tịnh, những chúng sanh gieo tạo các ác nghiệp, kết quả là họ phải chịu khổ trong kiếp này cũng như trong kiếp sau.” 

“Dù sự thật rằng ta au khổ do sự sai lầm của người khác, thân này của ta ví như cánh ồng, hành ộng gieo trồng những hạt giống khổ au không ai khác ngoài bản thân ta.”

“Sự nhẫn nại này là phương tiện ể trả món nợ khổ au”.

“Nếu không có người làm ác thì làm sao ta có thể thực hành viên mãn pháp Nhẫn nại Ba-la-mật?”

“Dù bây giờ người này xúc phạm ta, nhưng trong quá khứ người này ã từng mang lại lợi lạc cho ta.”

“Hành ộng sái quấy của kẻ khác là nhân ể ta thực hành pháp nhẫn nại và vì vậy nó chứng tỏ có lợi ích ối với ta”.

“Tất cả những chúng sanh này ều như con ruột của ta, làm sao một người có trí tuệ như ta lại có thể tức giận về những hành ộng sái quấy của con ruột mình?”

“Người ấy ngược ãi ta tựa như tâm của họ bị con quỷ nhập vào; ta nên giải cứu cho họ.”

“Ta cũng là nguyên nhân của hành ộng sai trái. Chính hành ộng sai trái này làm sanh khởi au khổ (vì nếu ta không hiện hữu thì không thể có hành ộng sai trái).”

“Chính danh sắc (nāma-rūpa) làm iều sai trái và cũng chính danh sắc khác tiếp thọ hành ộng sai trái. Nhưng giờ ây hai khối danh sắc ã diệt rồi. Vậy ta nên giận ai ây? Không nên khởi lên sân hận.”

Và “Nếu hiểu úng ý nghĩa cùng tột của tất cả các pháp là vô ngã thì không có người sai và không ai thực hiện sai lầm.” Vị Bồ tát tu tập pháp nhẫn nại bằng sự suy xét như trên.

Nếu sân hận sanh khởi do những iều sai trái của kẻ khác và cứ tiếp tục chế ngự tâm do sức mạnh của thói quen trong một thời gian dài, vị Bồ tát suy xét như vầy:

“Nhẫn nại là pháp hỗ trợ các pháp hành chống lại những sai trái của kẻ khác.”

“Những iều sai trái do kẻ khác em lại au khổ cho ta, trở thành nhân tố sanh khởi niềm tin trong ta; vì au khổ là nguyên nhân ể sanh khởi niềm tin và cũng là nhân tố của khổ tưởng và bất toại nguyện (anabhirati-saññā) với thế gian.”

“Bản chất của các căn như mắt v.v.. là phải tiếp xúc với các cảnh, xấu hoặc tốt. Không thể nào mong muốn ừng tiếp xúc với cảnh trái ý nghịch lòng.”

“Chạy theo sự sai khiến của sân hận, người ta bị thiêu ốt trong những cơn nóng giận. Có lợi ích gì mà bắt chước theo những hành ộng sai lầm như vậy?

“Bậc Giác ngộ thương chúng sanh như con ruột của Ngài. Do ó, là người có chí nguyện cầu Giác ngộ, ta không nên tức giận hoặc tuyệt vọng vì họ.”

“Nếu người hành ộng sai lầm ối với ta là người có những ức tánh cao quý như giới, thì ta nên suy xét như vầy: “Ta không nên nổi nóng với một người có giới ức như vậy.”

“Nếu người hành ộng sai lầm ối với ta là người không có những ức tánh cao quý như giới, thì ta nên suy xét như vầy: “ Đây là người mà ta nên xem xét với lòng bi mẫn” 

“Nóng giận làm giảm thiểu thanh danh và các ức tánh của ta.”

“Nóng giận với người khác sẽ làm cho khuôn mặt của ta trở nên xấu xí, khiến ta khó ngủ, v.v... làm kẻ thù vui mừng, ắc chí.”

“Kết quả của nóng giận là mất tài sản, mất bạn bè, người cấp dưới sẽ rời xa mình và sẽ cuối cùng bị tái sanh vào khổ cảnh. (Sattaka Nipāta, Aṅguttara Nikāya – Kinh Tăng chi)

“Sự nóng giận này là kẻ thù hùng mạnh, em lại mọi iều tai hại và tiêu diệt tất cả sự thịnh vượng.”

“Khi một người có pháp nhẫn nại, người ấy sẽ không có kẻ thù.”

“Khi nghĩ rằng nhờ nhẫn nại, ta sẽ không gặp phải khổ au ( khổ au xảy ến với người làm ác). Dùng sân hận ể trả thù người kia tức là ta ang i theo bước chân của kẻ thù.”

“Nếu ta chinh phục ược sân hận bằng pháp nhẫn nại thì ta cũng sẽ hoàn toàn chiến thắng kẻ thù - kẻ làm nô lệ cho sân hận.”

“Từ bỏ pháp nhẫn nại cao quý vì sự nóng giận là iều không úng”

“Làm sao ta có ược những ức tánh cao quý như giới, v.v... khi sân hận - pháp ối nghịch với tất cả thiện pháp ang sanh khởi trong ta? Và nếu vắng mặt những ức tánh như vậy thì làm sao ta có thể giúp ỡ chúng sanh và ạt thành mục tiêu là Phật quả?”

“Chỉ bằng nhẫn nại, người ta mới có thể giữ tâm không bị cuốn hút bởi ngoại cảnh và tâm ược tập trung. Và nhờ tâm ược tập trung, người ta mới có thể thấy rõ tất cả pháp hữu vi là vô thường và bất toại nguyện, tất cả các pháp là vô ngã; Niết bàn là pháp vô vi, bất tử, v.v... Và những ân ức của một vị Phật có những năng lực vô song, bất khả

tri.”

Do khả năng như vậy, hành giả an trú trong Tuệ quán (anuloma khanti), nhận ra rằng “Tất cả các pháp là hiện tượng tự nhiên, chẳng có gì liên quan ến ngã. Chúng sanh và diệt theo úng các duyên riêng biệt của chúng. Chúng chẳng từ âu ến và chẳng i về âu. Chúng không thường tồn như một thực thể. Không có chủ nhân trong nhóm pháp tự nhiên này (vì không có gì gọi là nhân vật riêng biệt ở chỗ ầu tiên cả). Khi giác ngộ các pháp úng như thật, người ta có thể biết rõ rằng chúng không phải là chỗ trú của ‘cái Ta’. Bằng sự suy xét như vậy, chư Bồ tát vững vàng trong cứu cánh của các Ngài, chắc chắn sẽ thành bậc Chánh ẳng giác.

(Đây là sự suy xét chi tiết về Nhẫn nại Ba-la-mật).

7. Phương pháp suy xét chi tiết về Chân thật Ba-la -mật

Chân thật Ba-la-mật nên suy xét theo cách như vầy:

“Nếu không có chân thật thì các ức tánh như giới, v.v... không thể xảy ra và không thể có sự thực hành ước nguyện chứng ắc Phật quả.”

“Khi chân thật bị phá hủy thì tất cả ác pháp ều có thể sanh khởi.”

“Người không nói lời chân thật thường xuyên thì ược xem là không áng tin cậy trong chính kiếp sống này. Trong những kiếp tương lai cũng vậy, lời nói của người ấy sẽ không ược mọi người chấp nhận.”

“Chỉ bằng pháp chân thật, người ta mới có thể tu tập các thiện pháp như giới, v.v…”

“Chỉ qua pháp chân thật làm nền tảng, người ta mới có thể làm thanh tịnh và thực hành viên mãn các ức tánh cao quý như các pháp Ba-la-mật (pāramī) , xả ly (cāga), tánh hạnh (cariya) - Nhờ chân thật ối với các pháp, người ta có thể thực hành các phận sự về pāramī, cāga, cariya và ược an trú trong pháp hành của chư vị Bồ tát 

(Đây là cách suy xét chi tiết về Chân thật Ba-la-mật)

8. Phương pháp suy xét chi tiết về Chí nguyện Ba- la- mật

Nếu không có chí nguyện cương quyết thực hành các iều thiện như Bố thí Ba-la-mật, v.v... thì khi gặp phải các pháp ối nghịch của chúng như bỏn xẻn (macchariya), ác giới (dussīlya), v.v... người ta không thể vững tâm ể thực hiện những việc thiện như vậy; và nếu không có sự vững tâm, thì người ta không thể thực hành chúng một cách khéo léo và dũng cảm. Và nếu không có sự thiện xảo và dũng cảm thì những pháp Ba-la-mật như bố thí, v.v... là những pháp cần thiết ể chứng ắc Nhất thiết trí, không thể thành tựu ược.

“Chỉ khi nào chí nguyện trong việc thực hành các iều thiện như Bố thí Ba-la-mật, v.v... ược vững vàng, khi ấy người ta mới có thể vững tâm mà ối mặt với các pháp ối nghịch của chúng như bỏn xẻn, ác giới, v.v.... Chỉ khi nào có sự vững tâm kiên ịnh như vậy, người ta mới có ược sự thiện xảo và dũng cảm trong việc thực hành các iều thiện như vậy. Chỉ khi ấy Bố thí Ba-la-mật, v.v... hình thành những pháp cần thiết cho sự chứng ắc Nhất thiết trí, mới có thể ược thành tựu.” Bằng cách này thì Chí nguyện Ba la mật ược suy xét ến. 

(Đây là cách suy xét chi tiết về Chí nguyện Ba-la-mật.)

9. Phương pháp suy xét chi tiết Tâm từ Ba-la-mật

“Người chỉ quan tâm ến lợi ích và hạnh phúc của riêng mình (người ích kỷ) không thể ược hưng thịnh trong kiếp này hoặc kiếp sau nếu không trau dồi tâm từ mong mỏi hạnh phúc cho kẻ khác. Vị Bồ tát luôn mong ước an trú chúng sanh trong hạnh phúc của Niết bàn thì càng phải phát triển tâm từ nhiều hơn. Chỉ bằng cách nuôi dưỡng tâm từ bi vô lượng ối với tất cả chúng sanh, Bồ tát mới có thể an trú họ trong Niết bàn.”

“Với tâm mong muốn tế ộ tất cả chúng sanh ạt ược hạnh phúc siêu trần của Niết bàn khi ta thành Phật, thì ngay bây giờ ta nên khởi tâm mong mỏi họ ược tăng tiến hưng thịnh trong thế gian.”

“Nếu bây giờ ta không khởi tâm mong mỏi hạnh phúc cho tất cả chúng sanh, thì biết khi nào ta mới thực hành viên mãn những hành ộng về lời nói và hành vi ể em lại hạnh phúc cho họ?”

“Những chúng sanh mà ngay bây giờ ược ta nuôi dưỡng bằng pháp từ bi, tương lai sẽ trở thành người thừa kế Giáo pháp của ta.”

“Nếu không có chúng sanh thì lấy gì ể thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật. Do ó, chúng sanh hình thành những iều kiện bổ túc cho sự thành tựu tất cả những ân ức của một vị Phật. Chúng sanh là mảnh ruộng mầu mỡ ể gieo tạo những hạt giống phước, là lãnh ịa tốt nhất ể thực hiện việc phước, là trú xứ ộc nhất áng ược tôn kính.”

Bằng cách này, hành giả nên trau dồi thiện ý ối với tất cả chúng sanh.

Cũng nên suy xét những ức tánh của bác ái theo cách này:

“Đại bi là pháp hành căn bản ầu tiên nhất trong tất cả những pháp hành dẫn ến ạo quả Phật. Đối với vị Bồ tát hoan hỷ trong việc em lại lợi ích và hạnh phúc cho tất cả chúng sanh mà không phân biệt thân, thù hoặc không thân không thù (mettā), thì lòng mong mỏi oạn trừ au khổ và bất hạnh của chúng sanh (karunā) sẽ trở nên mạnh mẽ và vững vàng. Như vậy tâm từ ái làm nền tảng cho ại bi nên ược phát triển ến tất cả chúng sanh.

(Đây là cách suy xét chi tiết về Từ ái Ba-la-mật .)

10. Phương pháp suy xét về chi tiết Xả Ba-la-mật

“Nếu không có tâm xả thì những lời chửi mắng và những hành ộng xúc phạm của kẻ khác sẽ làm cho tâm ta phiền não. Tâm bị phiền não thì không thể thực hiện các việc phước như bố thí, v.v... là những pháp cần thiết ể chứng ắc Phật quả.”

“Khi tâm bác ái ược rải ến chúng sanh mà không có tâm xả i kèm thì các pháp Ba-la-mật không thể thanh tịnh ược.”

“Vị Bồ tát không phân biệt vật thí cũng không phân biệt người thọ lãnh. Điều này không thể xảy ra nếu không có tâm xả.”

“Nếu tự thân không có pháp xả, và không xem xét ến những nguy cơ xảy ến trong cuộc sống và ời sống phụ thuộc thì người ta không thể hướng ến việc làm cho giới ược thanh tịnh. 

“Vượt lên trên những kẻ không thích làm iều thiện và thích ắm chìm trong các khoái lạc, chỉ những người có pháp xả mới ạt ược sức mạnh của sự từ bỏ.”

“Tất cả những phận sự của các pháp cần thiết về ba-la-mật ược thành tựu chỉ bằng cách xem xét chúng một cách úng ắn bằng trí xả (ñāṇupekkhā).”

“Khi vắng mặt pháp xả thì sự tinh tấn quá mức sẽ làm cho pháp thiền không có kết quả.”

“ Chỉ có pháp xả, chúng sanh mới có sự kham nhẫn.”

“Chỉ do pháp xả, chúng sanh mới có sự chân thật.”

“Nhờ giữ tâm bình thản trước các pháp thăng trầm của ời sống, chí nguyện thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật của hành giả mới trở nên vững vàng, không dao ộng.”

“Chỉ bằng pháp xả, người ta mới có thể bình thản trước những iều sai trái do kẻ khác em ến; chỉ có sự bình thản như vậy mới ẩy mạnh việc an trú trong bác ái.”

Tu tập các pháp Ba-la-mật theo cách này, trú vững chắc trong chí nguyện, thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật - Tất cả những iều này chỉ có thể xảy ra nhờ pháp xả.

( Đây là cách suy xét chi tiết về Xả Ba-la-mật) 

Những cách quán sát (paccavekkhanā-ñāṇa) về những iều bất lợi do không tạo những việc phước như bố thí, v.v... và về những lợi ích phát sanh từ những việc phước như vậy ã hình thành nền tảng cho các pháp Ba-la-mật.

F. Mười lăm Hạnh (Carana) và năm Thắng trí (Abhiññā) cùng với những chi pháp của chúng   

Cũng như Quán sát trí, mười lăm loại Hạnh và năm Thắng trí cùng với những chi pháp của chúng hình thành nền tảng của các pháp pāramī.

Mười lăm Hạnh (carana)  là:

  1. Sīla saṁvara - Giới thu thúc 
  2. Indriyesu guttadvarata - Sự óng kỹ các căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) bằng chánh niệm ể bọn cướp dưới dạng những hành ộng ác không thể ột nhập vào tâm. 
  3. Bhojanamattaññuta - Tiết ộ trong thọ thực
  4. Jagariyānuyoga - Trong sáu phần thời gian của ngày và êm: sáng, trưa, chiều, canh một, canh hai và canh cuối của êm, chỉ ngủ trong canh hai, còn năm canh còn lại thì hành thiền với hai oai nghi là ngồi và i kinh hành.

(5-11) Bảy ức tánh: tín, tấn, niệm, tuệ, văn, tàm và quý.

(12-15) Bốn thiền (sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền).

Trong mười lăm carana, các thành phần của bốn hạnh ầu tiên là mười ba pháp ầu à (dhutaṅga) và những ức tánh như tri túc, thiểu dục, v.v....

Trong bảy ức tánh:

a) Các yếu tố hình thành ức tin là:

  1. Buddhānussati - Niệm Phật.
  2. Dhammānussati - Niệm Pháp.
  3. Saṅghānussati - Niệm Tăng.
  4. Sīlānussati - Niệm giới.
  5. Cāgānussati - Niệm xả ly.
  6. Devatānussati - Niệm chư thiên.
  7. Upasamānussati - Niệm tịch tịnh.
  8. Lukhapuggala parivajjana - Không thân cận với người thô lỗ, người không có ức tin.
  9. Siniddha-puggala - Thân cận với những người hòa nhã, có ức tin.
  10. Pasādanīya dhamma paccavekkhanā - Quán các pháp làm khởi dậy niềm tịnh tín.
  11. Tadadhimuttatā - Có khuynh hướng khởi dậy niềm tin trong mọi oai nghi.

b) Các yếu tố hình thành chánh niệm:

  1. Chánh niệm và giác tỉnh trong bảy tư thế như i tới, i lui, v.v....
  2. Không thân cận với những người chểnh mảng, thiếu thận trọng.
  3. Thân cận với những người có chánh niệm.
  4. Có khuynh hướng khởi lên chánh niệm trong mọi oai nghi.

c-d)  Các thành tố của tàm và quý:

  1. Quán về khổ nạn do ác nghiệp gây nên.
  2. Quán về những thân phận khốn khổ trong bốn khổ cảnh.
  3. Quán về ặc tánh nâng ỡ của phước.
  4. Không thân cận với những người không có tàm quý.
  5. Thân cận với những người có tàm quý.
  6. Có khuynh hướng tu tập về tàm và quý.

e) Các yếu tố tạo nên sự a văn là:

  1. Kiếp trước thường cố gắng học hỏi.
  2. Thường hay tìm tòi học hỏi.
  3. Thân cận với người thực hành thiện pháp.
  4. Tầm cầu kiến thức chánh áng.
  5. Có sự chín chắn về các quyền như tín quyền, v.v....
  6. Tránh xa phiền não.
  7. Không thân cận với những kẻ ngu dốt.
  8. Thân cận với những bậc a văn; và 
  9. Có khuynh hướng mở rộng kiến thức trong tất cả mọi oai nghi.

f) Các yếu tố làm khởi sanh tinh tấn:

  1. Quán về những khổ nạn trong bốn khổ cảnh.
  2. Quán về những lợi ích của sự nỗ lực tinh tấn.
  3. Quán về tánh chất khả ái của con ường mà các bậc giới ức  như Đức Phật, v.v... ã i qua.
  4. Tôn kính vật thí bằng cách siêng năng thực hành chánh pháp.
  5. Quán về di sản cao quý của chánh pháp .
  6. Quán Đức Phật là bậc Tối thượng sư.
  7. Quán rằng ta là người thuộc dòng dõi của Đức Phật.
  8. Quán những ức tánh cao quý trong Pháp bảo.
  9. Không thân cận những kẻ lười biếng.
  10. Thân cận những bậc chuyên cần, tinh tấn  và 
  11. Có khuynh hướng phát triển tinh tấn trong mọi oai nghi.

g) Các thành tố của trí tuệ:

  1. Suy i xét lại về các uẩn (khandha), các xứ (āyatana), các giới

(dhatu), v.v... của chính mình;

  1. Giữ trong sạch các vật trong thân và ngoài thân;
  2. Giữ quân bình giữa tín và tuệ, giữa tấn và ịnh úng như câu nói:

“Đức tin thái quá dẫn ến ngoan ạo thái quá.

Trí tuệ thái quá dẫn ến xảo biện.

Tinh tấn thái quá dẫn ến phóng dật. Định thái quá dẫn ến hôn muội.

Không bao giờ có niệm thái quá.”

  1. Không thân cận với những kẻ ngu si;
  2. Thân cận với các bậc trí tuệ;
  3. Quán về tánh a dạng của trí tuệ thâm sâu liên quan ến các  pháp vi diệu như uẩn, v.v... và 
  4. Có khuynh hướng phát triển trí tuệ trong mọi oai nghi.

h) Các yếu tố ể thành tựu bốn tầng thiền:

  1. Bốn hạnh ầu tiên bắt ầu bằng sự trì giới.
  2. Phần ầu của thiền chỉ và 
  3. Năm pháp tự tại (vasibhava)

Qua các hạnh (carana) và các thắng trí (abhiññā), người ta có thể ạt ược sự nỗ lực thanh tịnh (payoga-suddhi) và thiên hướng thanh tịnh (āsaya-suddhi). Qua sự nỗ lực thanh tịnh, người ta có thể thực hiện vô úy thí (abhaya-dāna) ến chúng sanh. Qua thiên hướng thanh tịnh, người ta có thể thực hiện tài thí (āmisa dāna), và qua sự thanh tịnh của cả hai, Pháp thí (dhamma-dāna) có thể xảy ra.

Bằng cách này, người ta có thể hiểu cách mà các Hạnh và các Thắng trí hình thành những pháp cần thiết ể thành tựu các pháp pāramī. 

           7. Những yếu tố nào làm ô nhiễm các pháp Pāramī? 

     Về câu hỏi: “Những yếu tố nào làm ô nhiểm các pháp pāramī?” Câu trả lời chung chung là: Cho rằng các pháp pāramī là “ta”, “của ta” và “tự ngã của ta” do ái dục, ngã mạn và tà kiến, là nguyên nhân làm ô nhiễm các pháp pāramī.

Tuy nhiên, câu trả lời chính xác theo từng trường hợp ặc biệt là:

  1. Tâm phân biệt vật thí này với vật thí kia, người thọ thí này với người thọ thí kia, là nguyên nhân làm ô nhiễm Bố thí Ba-la-mật. (Vị Bồ tát trong khi thực hành Bố thí Ba-la-mật không nên có sự phân biệt các loại vật thí mà vị ấy có và cũng không nên phân biệt người thọ thí thuộc ối tượng nào. Vị ấy không nên nghĩ về phẩm chất của vật thí, vật thí này quá thấp hèn; vật thí này quá cao sang. Vị ấy cũng không nên nghĩ về người thọ thí như: “Người này không có giới, ta không thể cho họ.” )

     Những ý nghĩ phân biệt như vậy sẽ làm cho Bố thí Ba-la-mật trở nên bất tịnh.

  1. Tâm phân biệt giữa các loại chúng sanh và giữa các trường hợp gây nên sự ô nhiễm cho Giới Ba-la-mật (Giới Ba-la-mật nên ược thực hành bất chấp các loại chúng sanh và trường hợp nào, khi nghĩ rằng: “Ta chỉ kiên tránh sát sanh loại chúng sanh ó mà không kiên tránh sát sanh ối với những loại chúng sanh khác. Ta sẽ thọ trì các iều học chỉ trong trường hợp ó, các trường hợp khác thì không.” Suy nghĩ phân biệt như vậy sẽ làm ô nhiễm Giới Ba-la-mật).
  2. Nghĩ rằng hai loại dục (vật dục - vatthu-kāma và phiền não dục - kilesa-kāna) và tam giới (dục giới, sắc giới và vô sắc giới) là khả ái, khả lạc. Sự chấm dứt dục lạc và sanh hữu là không khả ái, không khả lạc. Ý nghĩ như vậy là nguyên nhân làm ô nhiễm Xuất gia Ba-la-mật.
  3. Ý nghĩ sai lầm về ‘ta’ và ‘cái của ta’ là nguyên nhân ô nhiễm Trí tuệ Ba-la-mật.
  4. Những ý nghĩ lười biếng làm khởi sanh hôn trầm, thụy miên và trạo hối là nguyên nhân ô nhiễm Tinh tấn Ba-la-mật.
  5. Những ý nghĩ phân biệt mình và kẻ khác (như những người của ta và những người của họ) là nguyên nhân ô nhiễm Nhẫn nại Bala-mật. 
  6. Những iều chưa thấy, chưa nghe, chưa xúc chạm và chưa biết mà nói rằng ã thấy, ã nghe, ã xúc chạm và ã biết. Những iều ã thấy, ã nghe, ã xúc chạm và ã biết mà nói rằng chưa thấy, chưa nghe, chưa xúc chạm và chưa biết là nguyên nhân ô nhiễm Chân thật Ba-la-mật.
  7. Nghĩ rằng các pháp cần thiết cho sự giác ngộ, các pháp Ba-lamật và các hạnh là không lợi ích và những pháp ối nghịch với chúng là có lợi ích. Ý nghĩ như vậy là nguyên nhân ô nhiễm Chí nguyện Ba-la-mật.
  8. Nghĩ về người hộ ộ của ta và người không hộ ộ ta (người thân quen hoặc không thân quen) là nguyên nhân ô nhiễm Từ ái Bala-mật.
  9. Tâm phân biệt các cảnh khả ái với các cảnh không khả ái mà người ta trải qua là nguyên nhân ô nhiễm Xả Ba-la-mật.
    1. Những yếu tố nào làm thanh tịnh các pháp Pāramī ?

Đối với câu hỏi ‘Những yếu tố nào làm thanh tịnh các pháp Ba-lamật?’ Câu trả lời là: “Không bị hủy hoại, lấm nhơ bởi ái dục, ngã mạn và tà kiến, và (như ã trình bày ở trên) không có những ý nghĩ phân biệt giữa các vật thí và giữa những người thọ lãnh, hình thành nguyên nhân làm thanh tịnh các pháp Ba-la-mật.

Thực tế thì các pháp Ba-la-mật ược thanh tịnh chỉ khi nào chúng không bị ô nhiễm bởi các phiền não như ái dục, ngã mạn, tà kiến, v.v... và không có những ý nghĩ phân biệt về các loại vật thí và các ối tượng thọ nhận.

    1. Những yếu tố nào ối nghịch với các pháp Pāramī ? 

Đối với câu hỏi: “Những yếu tố nào ối nghịch với các pháp Ba-lamật?” Câu trả lời là: “Xét chung thì tất cả những yếu tố gây ô nhiễm và tất cả những pháp bất thiện là những pháp ối nghịch với các pháp Ba-la-mật.”

Xét chi tiết thì ái ối với vật thí và tánh keo kiệt là pháp ối nghịch với Bố thí Ba-la-mật. Những hành ộng bất thiện về thân, ngữ và ý là pháp ối nghịch với Trì giới Ba-la-mật. Tâm vui thích trong các cảnh dục, các phiền não dục và các sanh hữu là pháp ối nghịch với Xuất gia Ba-la-mật. Si mê quá ộ là pháp ối nghịch với Trí tuệ Ba-la-mật. Tám trường hợp lười biếng ã ược kể ra ở trước là những pháp ối nghịch với Tinh tấn Ba-la-mật. Tâm cố chấp do tham muốn các cảnh vừa lòng hoặc giận ghét các cảnh trái ý là pháp ối nghịch với Nhẫn nại Ba-la-mật. Không nói lời chân thật là pháp ối nghịch với Chân thật Ba-la-mật. Không có khả năng thắng phục các pháp ối nghịch với các pháp Ba-la-mật (không thực hành chúng một cách thành công) là pháp ối nghịch với Chí nguyện Ba-la-mật. Chín hình thức làm sanh khởi hận thù là pháp ối nghịch với Bác ái Ba-la-mật. Không có cái nhìn bình thản trước các cảnh vừa lòng và Phật ý là pháp ối nghịch với Xả Ba-la-mật.

Chi tiết hơn:

  1. Luyến ái các vật thực cho i (lobha - tham), không có thiện cảm với những người thọ nhận (dosa - sân) và không hiểu biết về bố thí và những quả phước của nó (moha - si mê) là những pháp ối nghịch với pháp Bố thí. Chỉ khi nào vắng mặt những trạng thái tham, sân và si như vậy thì sự bố thí mới ược thành tựu mỹ mãn.
  2. Thập ác nghiệp là những pháp ối nghịch với Giới Ba-la-mật vì sự thọ trì giới ược thành tựu chỉ khi nào người ta thoát khỏi những iều ác về thân, ngữ và ý.
  3. Sự xuất gia là hành ộng cao quý, từ bỏ: các dục lạc, ngược ãi kẻ khác và tự làm khổ mình. Đắm chìm trong dục lạc (lobha), ngược ãi kẻ khác (dosa) và làm khổ mình (moha) là những pháp ối nghịch với Xuất gia Ba-la-mật.
  4. Trí tuệ em lại ánh sáng cho những chúng sanh bị mù quáng bởi tham ái, sân hận và si mê. Do ó, ba yếu tố bất thiện này ối nghịch với Trí tuệ Ba-la-mật.
  5. Qua tham ái, người ta lưỡng lự trước các việc phước. Qua sân hận người ta không thể an trú trong các phước thiện và qua si mê, người ta không thể phấn ấu trong con ường chánh. Nhờ tinh tấn mà người ta làm các việc phước không chùn bước, an trú trong chúng và tiến bộ theo phương hướng úng ắn. Do ó, ba yếu tố bất thiện này ối nghịch với Tinh tấn Ba-la-mật.
  6. Chỉ do nhẫn nại, người ta khiến tham ái vắng mặt ối với những cảnh vừa lòng và khiến sân hận bị loại trừ ối với những cảnh

trái ý. Nhờ vậy, người ta có thể nhận biết tánh vô ngã và trống rỗng của các hiện tượng tự nhiên. Như vậy tham, sân và si không thể nhận biết bản chất không của các hiện tượng pháp, nên chúng là những pháp ối nghịch với Nhẫn nại Ba-la-mật.

  1. Không có chân thật, người ta có thể thiên vị do luyến ái ối với những người tốt với mình, hoặc giận ghét vì họ ã làm hại mình. Trong những hoàn cảnh như vậy, chân thật không thể hiện hữu một cách mạnh mẽ. Chỉ bằng pháp chân thật, người ta mới có thể thoát khỏi sự thiên vị do tham, sân hoặc si, là những pháp ngăn chặn sự hiện khởi của pháp Chân thật. Như vậy ba yếu tố bất thiện này là những pháp ối nghịch với pháp Chân thật.
  2. Bằng chí nguyện, người ta có thể vượt qua những pháp thăng trầm của cuộc sống và giữ tâm kiên cố trong việc thực hành pháp Ba-la-mật. Do ó, tham, sân và si mê - là những pháp lụy ắm theo những thăng trầm của cuộc sống, là những pháp ối nghịch với Chí nguyện Ba-la-mật.
  3. Sự phát triển tâm từ có thể loại trừ những chướng ngại của con ường tiến bộ tâm linh. Do ó, ba yếu tố bất thiện này, tạo nên những chướng ngại, là những pháp ối nghịch với Bác ái Bala-mật.
  4. Không có xả thì tham ối với những cảnh khả ái, và sân hận ối với những cảnh trái ý mà không thể loại trừ, ngăn chặn. Người ta cũng không thể nhìn ối cảnh với tâm bình thản. Chỉ khi có pháp Xả người ta mới nhìn ối cảnh với tâm bình thản ược. Do ó, ba yếu tố bất thiện này là những pháp ối nghịch với Xả Ba-la-mật.

10.  Các pháp Pāramī  ược thực hành như thế nào? 

Đối với câu hỏi: “Các pháp Ba-la-mật ược thực hành như thế nào? Các vị Bồ tát thực hành các pháp Ba-la-mật như thế nào?” Câu trả lời là:

Xét về Dāna Pāramī 

Chư Bồ tát thực hành Bố thí Ba-la-mật bằng nhiều cách như em lại lợi ích cho chúng sanh, chăm lo phúc lợi cho họ, từ bỏ tứ chi và mạng sống, hóa giải những iều tai họa sẽ xảy ến với họ, dạy pháp cho họ, v.v....

Câu trả lời chi tiết là: Bố thí có ba loại: (a) āmisa-dāna - tài thí, (b) abhaya-dāna - vô úy thí, và (c) dhamma-dāna - pháp thí.

(a) Āmisa-dāna - Tài thí

  Āmisa-dāna - Tài thí là sự bố thí vật chất, chia làm hai loại: (a) vật trong thân, (b) vật ngoài thân.

Theo Kinh, vật thí ngoài thân gồm có mười loại: thức ăn, nước uống, y phục, xe thuyền, hoa, dầu, giường chiếu, chỗ ngụ và ồ thắp sáng. Vật thí này trở nên nhiều loại chi tiết hơn khi mỗi thứ ược chia ra thành nhiều loại như vật thực loại cứng, vật thực loại mềm, v.v....

Theo Abhidhamma, vật thí có 6 loại theo sáu cảnh trần, ó là vật thí về những cái thấy ược, vật thí về âm thanh, v.v... Sáu loại vật thí này trở thành nhiều loại chi tiết hơn, ví dụ, những vật thấy ược có thể là vật màu xanh, màu vàng, màu ỏ, v.v....

Tương tự có những vật vô tri như vàng, bạc, ngọc, ngọc trai, san hô, v.v... hoặc ruộng vườn, công viên, v.v... và cũng có những vật hữu tình như tôi trai, tớ gái, gia súc, v.v... Như vậy có rất nhiều loại vật thí ngoài thân.

Sự bố thí vật ngoài thân ược thực hiện như thế nào? 

Khi vị Bồ tát bố thí vật ngoài thân, Ngài cho bất cứ thứ gì mà người xin cần ến. Nếu Ngài biết nhu cầu của họ thì không cần người kia hỏi xin, Ngài cũng cho úng món hàng ấy và còn nhiều hơn thế nếu ược hỏi xin.  Ngài cho i các vật thí một cách hào phóng mà không cần bất cứ iều kiện nào.

Khi có ủ các loại vật thí, Ngài trao chúng ến người xin một cách ầy ủ, dồi dào. Khi không có ủ, Ngài chia (thành những phần bằng nhau), vật gì có thể phân chia rồi em phân phát.

Có một iểm ặc biệt cần lưu ý, Ngài không cho những thứ gây tổn hại ến kẻ khác như khí giới, chất ộc và các loại chất say. Ngài cũng không cho những thứ ể vui chơi không em lại lợi ích, chỉ em lại sự dễ duôi, sự ham thích vui ùa.

Đối với người bịnh, Ngài không cho ồ ăn hoặc thức uống không thích hợp, Ngài chỉ cho cái gì thích hợp và úng số lượng.

Cũng vậy, khi ược hỏi xin, Ngài trao cho các gia chủ những thứ thích hợp với họ và ến các vị tỳ khưu những thứ thích hợp với các vị ấy. Ngài cho các vật thí mà không gây phiền phức cho những người thân với Ngài như mẹ, cha, quyến thuộc, bạn bè, vợ con, người hầu.

Sau khi hứa sẽ cho vật thí ắc giá, Ngài không cho vật gì ít giá trị hơn. Ngài bố thí mà không cầu danh lợi, sự tôn kính hoặc quả báu của nó. Ngài cũng không mong ược tái sanh vào cõi hạnh phúc, sang giàu và thịnh vượng. Ngài chỉ có một ước nguyện duy nhất là chứng ắc Nhất thiết trí.

Ngài không bố thí với tâm coi thường người thọ thí hoặc vật thí. Ngay cả ối với những người thọ thí bất kính ối với Ngài, Ngài cũng không bố thí với tâm trạng buồn giận. Ngài luôn luôn bố thí với thái ộ tôn kính, tâm thanh tịnh và lòng bi mẫn. Sự bố thí của Ngài kết hợp với niềm tin nhân quả.

Ngài bố thí mà không khiến người thọ nhận phải hạ mình hoặc tỏ thái ộ tôn kính ến Ngài. Ngài không dùng những lời nói thô lỗ, cũng không tỏ thái ộ buồn bực. Ngài bố thí với thái ộ thân ái, kèm theo lời nói dịu dàng, khuôn mặt tươi vui và thiên hướng thanh tịnh.

Khi có sự luyến ái quá mức ối với vật nào ó do phẩm chất quí giá của nó hoặc do ã dùng nó trong thời gian dài hay do tánh ưa thích những vật quí giá, tuyệt hảo. Vị Bồ tát nhận biết tâm dính mắc nên nhanh chóng loại trừ nó và tìm kiếm người thọ nhận và cho ngay vật ấy.

Giả sử vị Bồ tát sắp thọ thực mà phần ăn chỉ ủ cho một người và có người ến trước mặt ấy xin vật thực. Trong hoàn cảnh như vậy, Ngàì sẽ cho ngay người xin  phần ăn của mình một cách ầy tôn kính.

Khi ai hỏi xin vợ con, người hầu, v.v... trước hết Bồ tát giải thích cho họ hiểu hành ộng bố thí của mình; chỉ khi nào họ ã thông suốt và vui vẻ, Ngài mới cho họ ến người xin. Nhưng Ngài không thực hiện sự bố thí như vậy ến loài phi nhân như dạ xoa, v.v....

Cũng vậy, vị Bồ tát sẽ không cho vương quốc của mình ến những người sẽ làm hại hoặc làm khổ dân chúng, những người i ngược với lợi ích của dân chúng. Ngài chỉ cho ến những người bảo vệ họ bằng sự cai trị úng ắn.

Đây là cách thực hành bố thí những vật ngoài thân của vị Bồ tát.

Sự bố thí những vật trong thân ược thực hiện như thế nào? 

Vị Bồ tát bố thí vật trong thân theo hai cách:

  1. Cũng như một người, vì muốn có ồ ăn và y phục mà bán thân làm nô lệ cho kẻ khác. Tuy nhiên, vị Bồ tát xả thân phục vụ mọi người không mong cầu dục lạc hoặc thiện thú, chỉ cầu lợi ích và

hạnh phúc cao nhất cho chúng sanh và sự viên mãn Bố thí Bala-mật ở mức cao nhất ví như sự bố thí toàn thân.

  1. Ngài không do dự cũng không dao ộng khi cho i tứ chi và các bộ phận trong thân thể của Ngài như tay, chân, mắt, v.v... ến bất cứ ai cần ến. Cũng như ối với những vật ngoài thân, Ngài không có sự luyến ái ối với tứ chi và các bộ phận trong thân , Ngài cũng không chút miễn cưỡng khi bố thí chúng ví như sự bố thí tứ chi và các bộ phận trong thân.

Hai mục ích của sự bố thí  

Trong việc dứt bỏ tứ chi và các bộ phận hoặc cả thân,  Bồ tát có hai mục ích: (i) thỏa mãn ước muốn của người thọ thí và cho họ hưởng bất cứ cái gì mà họ cần, và (ii) ạt sự thiện xảo trong việc thực hành các pháp Ba-la-mật bằng cách bố thí hào phóng mà không chút luyến ái ối với các vật thí. Vị Bồ tát bố thí những vật trong thân với niềm tin “Qua sự bố thí như vậy, chắc chắn ta sẽ chứng ắc Nhất thiết trí.”

Trong những hành ộng bố thí này, Ngài chỉ cho cái gì thực sự em lại lợi ích cho người thọ thí. Đặc biệt ối với Ma vương hoặc tùy tùng của Ma vương, những kẻ muốn làm hại Bồ tát, thì Ngài sẽ không cho thân mạng và các bộ phận cơ thể của Ngài. Nhưng ối với tất cả những người khác ến xin chúng thì Ngài cho ngay, vì ó là dịp bố thí hiếm hoi.

(b) Abhaya-dāna - Vô úy thí 

Vị Bồ tát bố thí sự không sợ hãi bằng cách bảo vệ  chúng sanh và giải cứu cho họ dù phải hy sinh tánh mạng của Ngài. Khi họ gặp phải rủi ro và tai họa gây ra bởi vua quan, ạo tặc, lửa, nước, kẻ thù, thú dữ như sư tử, cọp, rắn, dạ xoa, v.v... 

(c) Dhamma-dāna - Pháp thí 

Bố thí Pháp có nghĩa là thuyết giảng chân lý một cách rõ ràng, với tâm thanh tịnh không bị ô nhiễm bởi tham, sân, v.v....

Đối với những người cần quả vị Thanh văn giác, Bồ tát thuyết pháp về Tam quy, giới thu thúc lục căn, sự tiết ộ trong ăn uống, sự tỉnh giác, bảy thiện pháp, sự thực hành thiền chỉ và thiền quá, bảy bước thanh tịnh, trí tuệ về bốn Đạo (magga-ñāṇa), Tam minh (vijjā), sáu Thắng trí (abhiññā), bốn Tuệ phân tích (patisambhidhā-ñāṇa) và sự Giác ngộ của vị Thanh văn (sāvaka bodhi).

Ngài bố thí pháp bằng cách giảng giải chi tiết nội dung của những ể tài kể trên, an trú trong Tam quy, giới, v.v... cho những người chưa ược an trú và giúp những người ã an trú rồi làm thanh tịnh những pháp hành của họ.

Cũng vậy, ối với những người có chí nguyện thành ạt quả vị Bích chi Phật (Paccekabuddha) và Toàn giác Phật (Sammāsambuddha), Bồ tát thuyết pháp bằng cách giải thích cho họ hiểu rõ các ặc tánh, các phận sự, v.v... của 10 pháp Ba-la-mật với oai lực của chư vị Bồ tát trong ba cõi - lúc thành tựu viên mãn các pháp Ba-la-mật, lúc trở thành Phật và viên mãn các phận sự của một vị Phật, an trú họ trong các pháp hành dẫn ến quả vị Độc giác và Toàn giác, và giúp làm thanh tịnh các pháp hành của những vị ã an trú trong ó.

Phân loại Thập bố thí kinh 

Khi vị Bồ tát bố thí vật chất, Ngài cho vật thực với ước muốn: “Do sự bố thí này, mong rằng ta có thể giúp ỡ chúng sanh ạt ược sự trường thọ, sắc ẹp, hạnh phúc, sức mạnh, trí tuệ và chứng ắc quả vị cao nhất là ạo quả A-la-hán.”

Tương tự, Ngài cho thức uống ể làm vơi dịu cơn khát về phiền não dục của chúng sanh.

Ngài bố thí y ể có ược nước da màu vàng ròng và vật trang sức là tàm và quí; bố thí xe thuyền ể ược thành tựu về các loại thần thông và hạnh phúc của Niết bàn; bố thí vật thơm ể tạo ra hương thơm của giới vô song; bố thí hoa và các loại dầu thơm ể có ược tất cả những ức tánh của một vị Phật; bố thí sàng tọa ể có ược bồ oàn giác ngộ dưới cội cây bồ ề; bố thí giường ngủ ể có ược thế nằm của một vị Phật khi Ngài nhập tứ thiền úng với câu nói: “Nằm nghiêng bên trái là thế nằm của người tham dục, nằm nghiêng bên phải là thế nằm của con sư tử, nằm ngửa là thế nằm của loài ngạ quỷ,  nhập vào tứ thiền gọi là thế nằm của một vị Phật; bố thí chỗ ngụ như nhà nghỉ, v.v... ể trở thành nơi nương tựa của chúng sanh; và bố thí èn sáng ể có ược ngũ nhãn.

Các loại bố thí và mục ích của chúng 

Vị Bồ tát bố thí màu sắc (rūpa-dāna) ể có ược hào quang thường xuyên tỏa rộng quanh vị Phật ra tám mươi hắc tay, ngay cả trong bóng tối của khu rừng rậm hoặc êm ba mươi với mây en dày ặc che phủ cả bầu trời. Bố thí âm thanh ể có ược giọng nói của Phạm thiên; bố thí các vị (nếm) trở thành người thân ái với tất cả chúng sanh; bố thí vật xúc chạm ể có ược tánh dịu dàng của một vị Phật; bố thí trái cây ể chứng ạt Niết bàn, không già không chết; bố thí sự tự do cho những người nô lệ ể thoát khỏi sự nô lệ phiền não; bố thí trò tiêu khiển trong sạch ể có sự vui thích trong chánh pháp; bố thí con ể khiến cho tất cả chúng sanh trở thành những ứa con bậc Thánh (bằng cách cho họ xuất gia trong Tăng chúng); bố thí vợ như hoàng hậu Maddi ể trở thành chúa tể của tất cả thế gian, (trong bổn sanh Vessantara, hoàng hậu Maddi là vợ của Bồ tát Vessantara); bố thí mười loại của báu (như vàng, ngọc, san hô, v.v...) ể ạt ược 32 hảo tướng của bậc ại trượng phu; bố thí ồ trang sức ể ạt ược 80 tướng phụ của bậc ại trượng phu; bố thí tài sản trong thế gian ể có ược kho tàng chánh pháp; bố thí vương quốc ể trở thành vị pháp vương; bố thí vườn ngoạn cảnh, hồ nước mát và rừng cây ể ạt ược những pháp cao siêu như các tầng thiền, ạo quả và giải thoát; bố thí chân ến bất cứ ai cần chúng ể sau này Ngài có thể tự mình i ến cội cây Bồ ề với ôi chân mang hảo tướng hình bánh xe; bố thí ôi tay của Ngài vì Ngài muốn mở rộng bàn tay chánh pháp ể giúp ỡ chúng sanh vượt qua bốn trận bộc lưu (dục, hữu, tà kiến và vô minh); bố thí tai, mũi, v.v... ể có ược phổ nhãn của vị Phật (Samanta cakkhu) tức là Nhất thiết trí; bố thí thịt và máu với tâm mong ước rằng: “Mong rằng tấm thân của ta sẽ em lại lợi ích và hạnh phúc cho tất cả chúng sanh trong tất cả mọi thời, ngay cả khi ta ang nhìn, ang nghe, ang hồi tưởng hoặc ang làm công việc cá nhân. Mong rằng nó sẽ là phương tiện ể che chở cho toàn thể thế gian”; bố thí ầu, phần cao nhất của thân, ể trở thành bậc tối thượng trên thế gian.

Trong những việc bố thí như vậy, vị Bồ tát làm không tầm cầu phương tiện bất chánh; không phải ể ngược ãi kẻ khác; không phải vì sợ hãi, hoặc xấu hổ; không phải ể gây phiền phức cho người thọ thí. Ngài không bố thí vật xấu và giữ lại vật tốt; Ngài cũng không khen mình và chê người; Ngài cũng không cầu mong thành quả nào khác ngoài Nhất thiết trí; Ngài không bố thí với tâm trạng ghét bỏ, khinh khi. Thực tế thì Ngài bố thí sau khi ã chuẩn bị lễ vật một cách cẩn thận bằng chính ôi tay của Ngài, hợp thời, có sự tôn kính úng mức ối với người thọ thí, không có sự phân biệt, ầy hoan hỷ trong cả ba thời (trước khi, trong khi và sau khi bố thí).

Do ó, sau khi bố thí, Bồ tát không hề có chút hối tiếc. Ngài không kiêu ngạo hoặc có thái ộ khinh khi ối với những người thọ thí mà nói với họ lời thân ái. Khi bố thí Ngài còn cho thêm vật phụ của nó cho ủ bộ.

Ví dụ: Khi Ngài muốn bố thí vật thực, Ngài nghĩ rằng: “Ta sẽ bố thí vật thực này cùng với những thứ phụ thuộc thích hợp khác và cũng bố thí thức uống, y phục, v.v…” và khi Ngài muốn bố thí y phục, Ngài nghĩ rằng: “Ta sẽ thực hiện sự bố thí y phục này với những thứ phụ thuộc thích hợp khác và cũng bố thí vật thực, v.v...” Ngài cho các loại vật thí khác cũng như thế.

Bất cứ khi nào Ngài bố thí hình sắc (rūpa dāna) Ngài cũng bố thí những thứ phụ theo nó như âm thanh (sadda dāna), v.v... Về sự bố thí âm thanh, v.v... cũng như thế.

Theo cách bố thí trong tạng Kinh, vật thí là những thứ dễ nhận biết. Nhưng cách bố thí theo tạng Abhidhamma, ó là những vật thí thuộc về ối tượng của các căn như sắc, thinh, v.v.... Người ta khó có thể biết ược cái gì tạo thành sắc thí (rūpa dāna) và bằng cách nào ể người ta thực hiện sự bố thí về sắc. Dưới ây là cách thực hiện cách bố thí như vậy.

Sáu loại bố thí theo tạng Abhidhamma 

Rūpa dāna - Sắc thí

Trong sáu loại vật thí theo tạng Abhidhamma, sự bố thí sắc nên ược hiểu như vầy: Sau khi kiếm ược những vật thí như hoa, y phục, những khoáng chất có màu xanh, vàng, ỏ, trắng, v.v... người ta xem chúng chỉ là màu sắc và nghĩ rằng: “Ta sẽ bố thí màu sắc. Đây là sự bố thí của ta về màu sắc.” Những vật thí ược cho với ý nghĩ như vậy ược gọi là sắc thí (rūpa dāna).

Không thể nào xảy ra nếu người ta muốn bố thí riêng một màu nào ó bằng cách tách rời nó ra khỏi vật thí mang màu sắc ấy. Muốn bố thí màu sắc, người ta có thể bố thí hoa, y phục hoặc khoáng chất có màu sắc mà ã chọn với ý nghĩ rằng. Đây là cách bố thí sắc (rūpa dāna).

Sadda dāna - Thinh thí 

 Bố thí âm thanh như âm thanh của trống, v.v... Khi bố thí như vậy, người ta không thể nào cho âm thanh giống như cho ngó sen và củ sen sau khi nhổ chúng lên hoặc bó hoa sen bằng cách ặt nó trong tay người thọ thí. Người ta bố thí âm thanh bằng cách cho những vật phát ra âm thanh như chuông hoặc trống với ý nghĩ rằng: “Ta sẽ bố thí âm thanh.” Vị ấy làm lễ Tam bảo bằng cách tự mình chơi một trong những nhạc cụ này hoặc bảo người khác làm như thế hoặc nghĩ rằng: “Đây là sự bố thí của ta về âm thanh,” người bố thí ặt cái chuông, cái trống ồng trên một cái giá ã ịnh sẵn trong chùa hoặc bảo người khác làm như vậy. Hoặc bằng cách cúng dường ến người thuyết pháp những thứ bồi bổ giọng nói của các Ngài như mật ong, mật ường, v.v... Bằng sự thông báo và mời mọi người ến nghe pháp hoặc bằng cách thuyết pháp, luận ạo với những người ã ến với mình. Hoặc bày tỏ sự hoan hỷ những việc phước như cúng dường vật thực ến vị tỳ khưu hoặc xây dựng tịnh xá hoặc khuyến khích người khác làm như vậy. Sự bố thí như vậy ược gọi là Thinh thí - Sadda dāna.

Gandha dāna - Hương thí 

Cũng vậy, sự bố thí hương thơm ược thực hiện sau khi ã kiếm ược những vật thơm khả ái dưới dạng củ, nhánh hoặc bột, xem nó là hương thơm và nghĩ rằng: “Ta sẽ bố thí hương thơm. Đây là sự bố thí của ta về hương thơm,” vị ấy cúng dường nó ến Tam bảo. Sự bố thí như vậy ược gọi là Hương thí - Gandha dāna

Rasa dāna - Vị thí 

Tương tự, sự bố thí vị ược thực hiện sau khi kiếm ược những thứ có vị ngon như hạt, củ, trái cây, v.v... xem nó chỉ là vị và nghĩ rằng: “Ta sẽ bố thí vị. Đây là sự bố thí của ta về vị.” Người bố thí dâng cúng nó ến người thọ thí. Hoặc bố thí vật thực, có vị ngon như cơm, bắp, ậu, sữa, v.v... Sự bố thí như vậy ược goị là Vị thí - Rasa dāna

Phoṭṭhabba dāna  - Xúc thí   

Đó là sự bố thí những vật xúc chạm như giường, ghế, nệm, võng, v.v... và các loại ồ trải như mùng, mền, chiếu, gối, v.v.... Sau khi kiếm ược những vật xúc chạm mềm mại, khả ái như ghế, khăn trải giường, chăn v.v… xem chúng chỉ là vật xúc chạm và nghĩ rằng: “Ta sẽ bố thí vật xúc chạm. Đây là sự bố thí của ta về vật xúc chạm,” Sự bố thí như vậy ược gọi là Xúc thí - Phoṭṭhabba dāna

Dhamma dāna - Pháp thí 

Pháp thí ở ây ám chỉ sự bố thí cảnh pháp (dhamma rammana), một trong sáu cảnh trần. Theo úng với câu châm ngôn: “Dưỡng chất (oja), ẩm chất (pāna), sanh mạng (jīvita) ược xem là Pháp thí.

Giải thích thêm:

Sau khi kiếm ược vật thí nào ó như bơ, sữa, v.v... giàu chất dinh dưỡng (oja), xem chúng chỉ là chất dinh dưỡng. Thực sự là cảnh pháp, và nghĩ rằng: “Ta sẽ bố thí cảnh pháp. Đây là sự bố thí của ta về cảnh pháp,” vị ấy bố thí bơ, sữa, v.v... hoặc bố thí tám loại thuốc uống (pāna) ược sửa soạn từ trái cây, hoặc các loại củ, hoặc nghĩ rằng “Đây là sự bố thí sanh mạng,” vị ấy bố thí những thứ em lại sự trường thọ như vật thực bằng phiếu thực phẩm v.v... hoặc mời thầy thuốc về nhà chạy chữa cho người bịnh; hoặc hủy bỏ những chiếc bẫy thú, những lưới cá, những lồng chim; hoặc phóng thích, giải thoát cho những người bị tù ày; hoặc sai người ánh cồng chiêng loan báo “Cấm giết thú và ánh cá ể bán thịt.” Rồi tự mình thi hành hoặc bảo kẻ khác làm như vậy ể bảo vệ sanh mạng của chúng sanh. Sự bố thí như vậy ược gọi là Pháp thí - dhamma-dāna

Chú thích:

  1. Dhammārammaṇa: Theo cuốn sách về Abhidhamma do trưởng lão Narada biên soạn thì “Dhammārammana (Cảnh pháp) bao gồm tất cả những ối tượng của tâm ý. Pháp gồm cả những hiện tượng tâm lý và vật lý. Bộ sách triết học khái lược của U-shwe-Zan - Aung mô tả cảnh của ý thức là “cảnh của các căn hoặc cảnh của tâm.” Bộ sách còn giải thích thêm rằng “cảnh của tâm cũng bao gồm năm loại tâm phụ: (i) tâm (citta),(ii) sở hữu tâm (cetasika); (iii) sắc thần kinh (pasāda rūpa) và sắc vi tế (sukhuma rūpa), (iv)khái niệm (paññatti: tên gọi, ý niệm, quan niệm, khuynh hướng); và (v) Niết bàn.
  2. Tám loại thức uống (pāna): Nước xoài, nước táo, nước chuối, nước trái chuối lá, nước trái cây mật ong, nước nho, nước củ sen hay súng, nước trái pharusaka.
  3. Sự bố thí vật thực bằng phiếu thực phẩm, salāka bhatta, xem trang 94, cuốn 1, phần 1.

Vị Bồ tát cống hiến tất cả những thành quả của sự bố thí kể trên cho lợi ích và hạnh phúc của chúng sanh trong khắp thế gian cho ến khi họ chứng ắc Niết bàn. Ngài làm như vậy ể tạo ra những pháp cần thiết cho sự chứng ắc pháp giác ngộ tối thượng, cho ý chí không thối chuyển (chanda), sự tinh tấn (vīriya), ịnh (samādhi), tuệ (pañña) và giải thoát (vimutti) của Ngài qua A-la-hán quả.

Trong việc thực hành Bố thí Ba-la-mật, Bồ tát tu tập tưởng vô thường liên quan ến mạng sống của Ngài và liên quan ến những vật sở hữu của Ngài. Ngài xem những vật sở hữu này thuộc về người khác. Ngài luôn phát triển tâm ại bi ến chúng sanh. Trong việc tăng trưởng tâm ại bi như vậy, Bồ tát tích lũy công ức ược rút ra từ tài sản giá trị của Ngài. Như một người có căn nhà ang cháy bèn tự thoát thân và mang theo tất cả những của cải có giá trị nhất ến chỗ an toàn. Bồ tát tự cứu mình và em những tài sản có giá trị của mình ra khỏi ngôi nhà lớn của ba cõi (dục giới, sắc giới và vô sắc giới), ngôi nhà ang bị ốt cháy bởi 11 loại lửa (lửa tham, lửa sân, lửa si, lửa già, lửa chết, lửa sầu, lửa bi, lửa au ớn, lửa ưu và lửa tuyệt vọng, v.v…) bằng cách cho i tất cả tài sản ấy không giữ lại dù một chút. Ngài bố thí mà không quan tâm, không phân biệt cái nào em cho và cái nào ể dùng. 

2. Giới Ba-la-mật ược thực hành viên mãn như thế nào? 

Muốn giúp ỡ kẻ khác bằng tài sản vật chất, trước hết người ta phải cố gắng tích lũy của cải. Cũng vậy, muốn tô iểm lên người của chúng sanh bằng những vật trang sức của giới, vị Bồ tát phải bắt ầu làm trong sạch giới của chính mình.

Ở ây, giới ược làm trong sạch theo 4 cách:

  • Ajjhāsaya-visuddhi - bằng thiên hướng thanh tịnh
  • Samādāna - bằng sự thọ trì giới 
  • Avītikkamana - bằng sự không vi phạm 
  • Paṭipakatika-karana - bằng sự sám hối sau khi ã phạm giới 
  1. Ajjhāsaya-visuddhi - Một người qua thiên hướng thanh tịnh của chính mình, tự nhiên ghê tởm iều ác. Người ấy có thể có giới rất thanh tịnh, trong anh ta khởi dậy cảm giác hỗ thẹn tội lỗi (hiri).
  2. Samādāna - Người ã thọ giới từ bậc trì giới suy xét rằng: “Ta ang thọ trì giới từ vị thầy như vậy.” Và nhờ có sự kính trọng những kẻ khác, người ta có thể ược thanh tịnh về giới nhờ khởi dậy cảm giác ghê sợ tội lỗi (ottappa).
  3. Avītikkamana - Khi ã có tàm và quí rồi thì không thể có sự vi phạm giới. Nhờ không vi phạm giới, người ta ược thanh tịnh.
  4. Paṭipakatika-karana - Do thiếu cẩn trọng, ôi khi người ta cũng phạm một hoặc hai giới. Sau ó do cảm hỗ thẹn và ghê sợ tội lỗi, người ta nhanh chóng làm trong sạch chúng bằng sự sám hối.

  Vāritta sīla (Chỉ trì giới) &  Cāritta sīla (Tác trì giới)

Giới ược thanh tịnh theo bốn cách kể trên gồm có hai loại, ó là Vāritta sīla (Chỉ trì giới) và Cāritta sīla (Tác trì giới):

  1. Vāritta sīla: Không làm iều gì do Đức Phật ã cấm qua lời dạy: “Điều này là sai. Điều này không nên làm. Nên kiên tránh việc làm như vậy.” Như vậy tránh xa mười ác nghiệp như sát sanh, v.v... ược gọi là Vāritta sīla  -  Chỉ trì giới.
  2. Cāritta sīla: Tôn kính những bậc áng kính như các vị thầy của mình, cha mẹ hoặc những bạn tốt và thực hành những phục vụ hữu ích và không thể chê trách ối với những bậc áng kính ấy thì ược gọi là Cāritta sīla - Tác trì giới.

Vị Bồ tát thọ trì Vāritta sīla - Chỉ trì giới như thế nào?

  1. Vị Bồ tát có tâm từ bi rất lớn ối với tất cả chúng sanh nên Ngài không có lòng oán hận ối với bất cứ ai ngay cả trong giấc ngủ. Ngài cũng kiên tránh sự sát sanh.
  2. Vì Ngài luôn luôn tận tâm giúp ỡ kẻ khác nên  thà Ngài cầm lấy con rắn ộc hơn là lấy cắp tài sản của kẻ khác.
  3. Trong những kiếp mà Bồ tát làm tỳ khưu hoặc ạo sĩ, Ngài luôn luôn tránh xa việc tà hạnh. Ngoài ra, Ngài còn tránh xa bảy pháp liên quan ến dục lạc (trong Aṅguttara Nikāya) ó là:
    1. Thích ược người nữ mát-xa, xoa bóp.
    2. Thích ùa giỡn với người nữ;
    3. Thích liếc nhìn người nữ;
    4. Thích nghe người nữ nói, cười, hát từ bên kia vách tường;
    5. Thích tưởng lại những hành ộng tình dục mà mình ã trải qua.
    6. Thích nhìn kẻ khác thọ hưởng dục lạc và mong muốn những khoái lạc như vậy; và 
    7. Sống cuộc ời phạm hạnh với mong ước ược tái sanh về cõi chư thiên ể hưởng dục.

Ngay cả bảy pháp liên quan ến dục lạc cũng tránh xa, nên sự phạm giới tà hạnh không thể xảy ra ối với vị Bồ tát.

Trong những kiếp sanh làm gia chủ, Bồ tát không hề có ý nghĩ về tà hạnh ối với vợ của người.

(d,e,f,g) Khi nói, Ngài tránh không phạm vào 4 loại ác ngữ và chỉ nói lời chân thật, nói những lời em lại sự hòa hợp giữa hai bên, nói lời thân ái và có dịp Ngài chỉ nói pháp một cách vừa phải.

(h,i,j) Tâm của Ngài luôn luôn vắng mặt tham ác và sân ộc, Ngài hằng có trí biết rằng mỗi người là chủ nhân các nghiệp của chính mình (kammassakata ñāṇa). Ngài luôn có niềm tin và thiện ý ối với bậc Sa-môn ang thực hành chánh hạnh.

Ngài xa lìa bất thiện nghiệp dẫn ến 4 khổ cảnh, và Ngài an trú trong thiện nghiệp dẫn ến cõi chư thiên và Niết bàn. Do sự thanh tịnh trong các thiên hướng của Ngài, và do sự thanh tịnh của thân nghiệp và khẩu nghiệp của Ngài, tất cả ước muốn của vị Bồ tát mong ước lợi ích và hạnh phúc cho chúng sanh ều ược thành tựu nhanh chóng.

Ngài ạt ược thành tựu viên mãn các pháp Ba-la-mật.

Những lợi ích của việc kiên tránh các ác nghiệp 

Bằng cách kiên tránh sự sát sanh (pānātipāta), vị Bồ tát bố thí sự vô hại ến tất cả chúng sanh. Ngài thành tựu trong việc phát triển tâm bác ái một cách dễ dàng và hưởng ược 11 lợi ích từ sự tu tập pháp Bác ái. Cùng với những lợi ích khác như sức khỏe, trường thọ và sự an vui to lớn, Ngài có ược các hảo tướng của bậc Đại nhân như ngón tay và ngón chân thon và dài. Ngài có thể oạn trừ khuynh hướng tự nhiên về sân (dosa-vāsana).

Do sự tránh xa trộm cắp (adinnadāna), vị Bồ tát có ược tài sản và của cải vững bền, không bị tàn hại bởi năm loại kẻ thù. Mọi người ều tin tưởng Ngài. Ngài hiền hòa, thân mến và áng tin cậy. Với khuynh hướng xả ly, Ngài có thể oạn diệt các khuynh hướng tự nhiên về tham (lobha-vāsana).

Nhờ tránh xa lối sống phi phạm hạnh (abrahmacariya), vị Bồ tát giữ tâm thanh tịnh và thân hành ứng ắn, thân ái, hài hòa với tất cả chúng sanh; Ngài nhận ược tiếng tốt. Ngài không tham luyến với nữ giới. Nhờ khuynh hướng xả ly, Ngài có thể oạn diệt các khuynh hướng về tham (lobha-vāsana).

Do tránh xa nói dối (musa-vada), vị Bồ tát rất ược kính trọng, ược chúng sanh tin cậy. Lời nói của Ngài ược chấp nhận ngay và có ảnh hưởng lớn ến mọi người, Ngài ược chư thiên yêu mến. Miệng của Ngài luôn luôn tỏa ra hương thơm. Lời nói và hành vi của Ngài ược hộ phòng nghiêm ngặt. Ngài có những hảo tướng ặc biệt của bậc Đại nhân như mỗi lỗ chân lông trên thân chỉ có một sợi lông, v.v... Ngài có thể oạn trừ các khuynh hướng tự nhiên về các phiền não (kilesa- vāsana).

Nhờ tránh xa lời nói ly gián (pisuna-vācā), vị Bồ tát có thân không thể bị hại và tùy tùng không bị chia rẻ bởi thủ oạn của kẻ khác. Ngài có niềm tin vững chắc trong chánh pháp. Ngài là người bạn rất chung thủy, thân ái với tất cả chúng sanh, hưởng ược các lợi ích là ít phiền não (kilesa).

Nhờ tránh xa lời nói thô ác (pharusa-vācā), nên vị Bồ tát thân ái với chúng sanh. Nhờ tánh vui vẻ, ôn hòa, giọng nói ngọt ngào, Ngài ược chúng sanh kính trọng hết mức, Ngài có ược tám ặc tánh của giọng nói[1].

 Do kiên tránh lời nói phù phiếm, vô ích  (samphappalāpa-vāca), vị Bồ tát thân ái và gần gũi với tất cả chúng sanh, ược chúng sanh tôn kính, trọng vọng. Thận trọng trước khi nói nên lời nói của Ngài ược hoan hỷ chấp nhận và có ảnh hưởng lớn ến mọi người. Ngài vận dụng ảnh hưởng và có khả năng trả lời ngay những câu hỏi của kẻ khác. Khi thành Phật, Ngài có khả năng trả lời tất cả những câu hỏi của chúng sanh bằng nhiều loại ngôn ngữ. Ngài trả lời bằng tiếng Magadhi, ngôn ngữ của các bậc Thánh (ariyavācā). (Câu trả lời bằng tiếng Magadhi khiến cho thính chúng với một trăm lẻ một ngôn ngữ khác nhau, ều hiểu ược như ang nghe ngôn ngữ của chính mình).

Do kiên tránh tham dục (abhijjhā), vị Bồ tát có ược bất cứ cái gì Ngài mong ước không chút khó khăn, Ngài có ược những của báu thù thắng, khả ái, Ngài ược các tầng lớp vua chúa, Bà-la-môn, và các gia chủ tôn trọng cùng kính nể. Ngài không bao giờ bị kẻ thù ánh bại; Ngài không bị khuyết tật về các căn như mắt, tai, mũi, v.v... và trở thành người không ai có thể sánh bằng.

Do kiên tránh sân ộc (vyāpāda), vị Bồ tát trở thành người dịu dàng, dễ mến và ược mọi người yêu quý nên họ tin tưởng Ngài một cách dễ dàng. Ngài không xúc phạm kẻ khác, chỉ trú trong pháp bác ái và có oai lực lớn.

Nhờ phủ nhận tà kiến và chỉ tu tập chánh kiến, vị Bồ tát có ược những người bạn tốt. Ngài không phạm vào iều ác dù bị e dọa ến tánh mạng. Với tri kiến vững chắc rằng là chủ nhân của các nghiệp của chính mình, Ngài không tin vào các iềm tướng có tính chất mê tín (diṭṭha suta mutamaṅgala: niềm tin của những kẻ thiếu học, tin vào sự may mắn hoặc rủi ro của năm cảnh khi họ thấy, nghe hoặc va chạm trong iều kiện và hoàn cảnh nào ó). Ngài có niềm tin vững chắc trong Chánh pháp và Nhất thiết trí của chư Phật (cũng như con thiên nga chúa không ưa thích phân bò). Ngài cũng không ưa thích các loại tín ngưỡng nào khác ngoài Chánh kiến (sammā-diṭṭhi). Ngài hiểu rõ ba ặc tánh vô thường, khổ và vô ngã. Trong kiếp cuối cùng khi Ngài thành Phật, Ngài ạt ược Vô chướng trí (Anāvarana-ñāṇa), (biết mọi thứ mà không gặp bất cứ chướng ngại nào). Trước khi thành Phật, Ngài cũng là người ứng ầu chúng sanh trong bất cứ kiếp nào mà Ngài sanh ra và Ngài ạt ược những iều may mắn cao nhất.

“Giới là nền tảng của tất cả mọi thành quả. Giới là nguồn gốc của tất cả mọi ức tánh của vị Phật, là pháp khởi ầu của tất cả các pháp Ba-la-mật.” Suy xét như vậy và rất quý trọng giới, vị Bồ tát phát triển chánh niệm và giác tỉnh trong bốn lãnh vực - kiểm soát thân nghiệp và khẩu nghiệp, thu thúc lục căn, nuôi mạng thanh tịnh, và việc sử dụng bốn món vật dụng. Ngài thực hành viên mãn sự thọ trì giới bằng sự cẩn trọng úng mức, xem lợi lộc và danh tiếng là kẻ thù ội trong lốt của người bạn.

(Đây là cách thọ trì Chỉ trì giới - Varitta Sīla)

Cāritta Sīla - Tác trì giới của vị Bồ tát 

Vị Bồ tát luôn niềm nở với những người bạn thiện lành, chắp tay tôn kính ón chào và tiếp ãi họ lịch sự. Ngài ích thân chăm sóc người bịnh và cung cấp cho họ những nhu cầu cần thiết. Sau khi nghe Pháp, Ngài bày tỏ sự hoan hỷ tán thán. Ngài nói lời tán dương các phẩm hạnh của những bậc giới ức. Ngài nhẫn nại chịu ựng những iều sai trái do kẻ khác em ến và thường xuyên ghi nhớ những iều tốt mà họ ã làm cho Ngài. Ngài hoan hỷ trong những việc phước của người khác và cống hiến những việc phước của mình cho sự Giác ngộ tối thượng. Ngài hằng trú trong thiện pháp không một chút dễ duôi. Nếu bất cẩn phạm phải iều ác nào, Ngài thành thật nhận lỗi và sám hối với các pháp lữ. Ngài tu tập thiện pháp ngày một sâu rộng hơn và thành ạt ược các pháp chứng cao hơn.

Cũng vậy, Ngài có sự thiện xảo và sốt sắng trong việc phục vụ chúng sanh về các vấn ề có lợi cho họ và em lại sự hoan hỷ cho Ngài. Khi chúng sanh gặp khó khăn như bịnh tật, v.v... Ngài cố gắng xoa dịu họ bằng hết khả năng của Ngài. Khi có chuyện không may (vyasana) xảy ến với họ, liên quan ến quyến thuộc, tài sản, sức khỏe, giới hạnh và niềm tin, Ngài oạn trừ sầu khổ cho họ bằng sự xoa dịu. Ngài khiển trách úng pháp những người áng bị khiển trách chỉ ể giúp họ tránh khỏi iều ác và an trú họ trong thiện pháp. Đối với những người xứng áng ược nâng ỡ, Ngài cho họ sự giúp ỡ úng pháp.

Khi nghe những pháp hành tối thượng của chư vị Bồ tát trong quá khứ, mà nhờ những pháp hành này làm cho các Ngài hoàn thiện các pháp Ba-la-mật, sự xả ly, các hạnh và những pháp hành khó thực hiện, có năng lực bất khả tư nghì, em lại lợi ích và hạnh phúc cho chúng sanh, Bồ tát không chút sợ hãi hoặc nản lòng..

Ngài suy xét: “Tất cả các vị Bồ tát trong quá khứ giống như ta, tất cả chỉ là con người, thế mà nhờ thường xuyên tu tập về giới, ịnh và tuệ, các vị ã chứng ạt sự Giác ngộ tối thượng. Cũng như các vị ại Bồ tát thuở xưa, ta cũng sẽ trải qua sự tu tập ầy ủ về giới, ịnh và tuệ. Bằng cách này, sau khi thành tựu viên mãn ba pháp tu tập, cuối cùng ta cũng sẽ chứng ạt mục tiêu là Nhất thiết trí. Như vậy, với sự siêng năng không suy giảm, Ngài thực hành viên mãn các pháp tu tập về giới, v.v....

Tương tự, vị Bồ tát không khoe khoang những việc thiện của mình, thay vào ó Ngài thú nhận những lỗi lầm của Ngài không hề che giấu. Ngài có sự thiểu dục, dễ thỏa mãn, thích nơi vắng vẻ. Ngài chịu ựng mọi khó khăn vất vả, không tham muốn vật này hay vật nọ, không dao ộng. Ngài không tự cao, không ngã mạn, không tự phụ, không lăng mạ và không nói quá lời. Ngài sống vắng lặng, không hành ộng lừa ảo, gian dối ể kiếm sống.

Ngài có thân hạnh và khẩu hạnh chân chánh và có những ề mục thiền quán. Ngài thấy nguy hiểm ngay cả trong lỗi lầm nhỏ nhất và thọ trì giới luật một cách cẩn trọng. Không luyến ái với tấm thân hoặc sanh mạng, Ngài chỉ hướng tâm ến sự chứng ạt Nhất thiết trí và Niết bàn, không ngừng chuyên tâm vào sự thực hành các thiện pháp. Ngài không chút luyến ái với tấm thân hay sanh mạng, thay vào ó Ngài xả bỏ chúng. Ngài cũng loại trừ các pháp làm ô nhiễm giới như sân hận, v.v...

Ngài không tự mãn với những thành quả bậc thấp, mà cố gắng ạt ược những pháp chứng cao hơn. Do những nỗ lực, cố gắng như vậy, thành quả của Ngài về thiền, v.v... không bị suy giảm hoặc trì trệ, mà dần dần tăng trưởng lên những tầng bậc cao hơn,

Cũng vậy, Bồ tát giúp người mù i ến chỗ họ muốn ến hoặc dẫn họ i úng ường; Ngài trao ổi, chuyện trò với người câm và người iếc bằng những cử chỉ, iệu bộ. Ngài cung cấp phương tiện i lại ến những người què, hoặc tự Ngài cõng họ trên lưng ến bất cứ nơi nào họ muốn.

Ngài làm việc thiện rất chăm chỉ khiến những người kém ức tin, có thể phát triển ức tin, những kẻ lười biếng trở nên tinh tấn, những kẻ bất cẩn, thiếu chánh niệm có thể phát triển chánh niệm, những kẻ phóng dật, hay lo lắng có thể phát triển sự ịnh tâm, và những kẻ ngu si, thiếu học có thể tu tập về trí tuệ. Ngài cố gắng làm cho người gặp khó khăn với những chướng ngại có thể oạn trừ những chướng ngại ấy và những người hay khởi lên các tà tư duy về dục, sân và hại có thể oạn trừ những tà tư duy ấy.

Đối với những người ã từng giúp ỡ Ngài, Ngài tỏ thái ộ biết ơn, ón chào họ bằng những lời thân thiện, ền áp họ bằng những lợi ích tương tự hoặc nhiều hơn những lợi ích mà họ ã cho Ngài. Trong lúc họ gặp rủi ro, Ngài giúp ỡ họ như một người bạn thân thiết.

Nhờ biết ược thiên hướng tánh khí tự nhiên của chúng sanh, Ngài giúp họ thoát khỏi iều bất thiện và an trú họ trong thiện pháp. Ngài giúp ỡ họ bằng cách áp ứng những nhu cầu và mong ước của họ. (Điều muốn nói ở ây là Ngài tìm cách kết bạn với họ ể giúp họ thoát khỏi ác pháp và giúp họ an trú trong các thiện pháp bằng cách bố thí ến những người thích vật thí, nói lời từ ái với những người thích nhỏ nhẹ, chỉ ra lối sống hữu ích (atthacariyā) ến những người thích sống như vậy, ối xử công bằng (sāmanattatā) ối với những người muốn ược ối xử như vậy).

Cũng vậy, với ý muốn em lại lợi ích cho chúng sanh, Ngài không làm tổn thương hay tranh cãi với họ, không làm họ bẽ mặt, hoặc khiến họ phải ân hận. Ngài không tìm lỗi lầm của kẻ khác hay xem thường họ. Ngài khiêm cung khi tiếp xúc với những người khiêm hạ.

Ngài không hoàn toàn tách biệt với mọi người, cũng không thân thiện quá mức hoặc giao du với họ lúc phi thời. Ngài chỉ ến với những người áng thân cận úng lúc và úng nơi. Ngài không nói xấu kẻ khác trước mặt bạn bè của họ, hoặc khen ngợi những người mà không có quan hệ tốt với họ. Ngài không kết thân với những bạn xấu.

Ngài không từ chối lời mời chính áng cũng không ưa ra những yêu cầu thái quá, cũng không nhận nhiều hơn những gì Ngài cần ến. Ngài bày tỏ sự hoan hỷ và khích lệ ến những người có tín tâm bằng cách thuyết pháp ến họ về những lợi ích của ức tin. Cũng vậy, Ngài bày tỏ sự hoan hỷ, khích lệ những người có giới, bố thí, nghe nhiều học rộng và trí tuệ bằng cách thuyết giảng về những quả phước của những ức tánh này.

Ở vào kiếp mà Bồ tát xuất gia, chứng thiền và các pháp thần thông, Ngài thị hiện những pháp thần thông này làm khởi dậy sự kinh cảm trong những người cố chấp không chịu làm các việc thiện, bằng cách cho thấy những sự au ớn kinh khủng trong các khổ cảnh. Ngài khiến những người không có ức tin và các thiện tánh khác an trú trong ức tin, v.v... và mở ra cho họ con ường tiếp cận giáo pháp của Đức Phật. Đối với những người ã có ức tin, v.v... Ngài giúp họ ạt ược sự tiến bộ trong những thiện pháp ấy.

Bằng cách này, Tác trì giới của vị Bồ tát trải qua nhiều kiếp giống như “cơn lũ” càng lúc càng lớn mạnh hơn. 

(Đây là phương pháp thực hành Giới ba-la-mật).

3.  Xuất gia Ba-la-mật ược thực hành viên mãn như thế nào? 

Như ã giải thích ở trên, Xuất gia Ba-la-mật là nhóm tâm và sở hữu tâm muốn thoát khỏi các dục lạc và các kiếp sống, sự xuất gia ấy ược thành lập dựa trên tâm Đại bi (Mahā-karunā) và phương tiện thiện xảo trí (Upāya-kosalla-ñāṇa), trước nó là trí nhờm gớm và ghê sợ các tội trong chúng. Do ó, vị Bồ tát trước hết phải thấy rõ các tội trong các dục lạc và các kiếp sống bằng trí nhờm gớm và ghê sợ (Quá hoạn trí – adīnava-ñāṇa)

Ngài suy xét về các tội ấy như vầy: “Vì ời sống gia ình là chỗ trú ngụ của tất cả các loại phiền não do những chướng ngại như vợ con, v.v... hạn chế sự thực hiện các việc phước vì người ta bận rộn với nhiều công việc như buôn bán, cấy cày, v.v… nên ó không phải là chỗ thích hợp mà sự hạnh phúc của việc xuất gia ạt ược.”

Các dục lạc của loài người giống như giọt mật trên ầu lưỡi kiếm, nhiều tai họa hơn vui sướng. Sự thọ hưởng dục lạc ngắn ngủi như tia chớp chợt lóe chợt tắt. Chúng giả tạm như vật ngụy trang che giấu ống phân,  như ứa bé mút hoài ngón tay mà không thỏa mãn, tai hại như người ăn nhiều vật thực gây ra rủi ro bất hạnh, như miếng mồi trên cái móc câu, gây au khổ trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai, như sức nóng của ngọn lửa ang thiêu ốt. Chúng có tánh chất hút dính như mủ mít, là phương tiện ể che dấu những vật hủy hoại như áo khoác của kẻ sát nhân. Như vậy, trước hết hãy suy xét những iều bất lợi trong các dục lạc và các kiếp sống, rồi suy xét tiếp về những lợi ích của sự thoát ly, tức là sự xuất gia, vị Bồ tát thực hành viên mãn Xuất gia Ba-la-mật.

Vì từ bỏ ời sống gia ình là nền tảng của Xuất gia Ba-la-mật vào thời kỳ không có giáo pháp của Đức Phật, và ể thực hành viên mãn Ba-la-mật này, vị Bồ tát sống cuộc ời ạo sĩ, duy trì chủ thuyết về nghiệp (kamma-vādī) và quả nghiệp (kiriya-vādī). Tuy nhiên, khi Đức Phật xuất hiện trong thế gian, vị Bồ tát gia nhập vào Tăng oàn trong giáo pháp của Đức Phật.

Sau khi ã xuất gia, Ngài thọ trì Chỉ trì giới (Vāritta sīla) và Tác trì giới (Cāritta sīla) , và ể làm thanh tịnh hai loại giới này Ngài thực hành các pháp ầu à (dhutaṅga)

Vị Bồ tát sau khi ã tẩy sạch các pháp ô nhiễm bằng nước sạch của giới, củng cố bằng các pháp ầu à, Ngài sẽ có ược thân hạnh và khẩu hạnh thanh tịnh. Ngài hài lòng với bất cứ loại y phục, vật thực và chỗ ngụ nào có ược. Sau khi ã thực hành theo ba pháp ầu tiên trong bốn pháp truyền thống của bậc Thánh (ariya-vaṃsattaya), Ngài phấn ấu ể ạt ược pháp thứ tư, là sự vui thích trong thiền ịnh (bhāvanārāma) bằng cách thực hành một ề mục thích hợp từ bốn mươi ề mục của thiền ịnh, cho ến khi Ngài chứng ược Cận ịnh (Upacāra) và Nhập ịnh (Appanā). Sự chứng ắc các tầng thiền chính là sự thực hành viên mãn Xuất gia Ba-la-mật của vị Bồ tát.

(Đây là phương pháp thực hành Xuất gia Ba-la-mật.)

4. Trí tuệ Ba-la-mật ược thực hành như thế nào? 

Vì ánh sáng của trí tuệ không thể ở chung với bóng tối của vô minh (moha) nên vị Bồ tát thực hành Trí tuệ Ba-la-mật tránh các nguyên nhân của si mê như ghét iều thiện (arati), lười biếng, ham ngủ, v.v... và chuyên tâm thực hành các pháp em lại trí tuệ sâu rộng, chứng ắc các tầng thiền, v.v....

Trí tuệ có 3 loại: Văn sở thành tuệ (Sutamaya Paññā), Tư sở thành tuệ (Cintāmaya Paññā) và Tu sở thành tuệ (Bhavanāmaya Paññā).

  1. Sutamayā Paññā - Văn sở thành tuệ

Để làm cho Văn sở thành tuệ / Văn tuệ (Sutamayā paññā) hay Đa trí (bāhusacca) ược lớn mạnh, trưởng thành, Bồ tát tu tập nó bằng sự nghiên cứu cẩn thận, nghe nhiều, tìm tòi học hỏi, ghi nhớ, tra hỏi bằng chánh niệm, tinh tấn và trí tuệ, i trước là Phương tiện thiện xảo trí (Upāya-kosalla-ñāṇa). Phạm vi của Văn tuệ biết ược là: (i) Ngũ uẩn, Thập nhị xứ, Thập bát giới, Tứ diệu ế, Hai mươi hai quyền, Luật duyên khởi, các phương pháp Niệm, v.v... những pháp này tạo thành các yếu tố giác ngộ, cũng như nhiều loại Pháp như thiện, bất thiện, v.v.... Và (ii) những hình thức của trí tuệ hợp thế, trong sạch làm gia tăng lợi ích và hạnh phúc của chúng sanh. Bằng cách này, vị Bồ tát tu tập Văn sở thành tuệ (Sutamayā paññā) và trở thành người có trí tuệ, tự mình tìm tòi học hỏi toàn bộ lãnh vực của nó và cũng giúp kẻ khác có ược nó.

Cũng vậy, ể phục vụ lợi ích của chúng sanh, vị Bồ tát tu tập trí tuệ khởi sanh ngay tại chỗ ể tìm kiếm Phương tiện thích hợp (Thānuppaṭṭika paṭibhāna ñāṇa),  còn ược gọi là Phương tiện thiện xảo trí (Upāya-kosalla ñāṇa). Do trí này mà vị Bồ tát có thể phân biệt các yếu tố ẩy mạnh sự tăng trưởng và hưng thịnh với các yếu tố gây ra sự tiêu diệt và tàn rụi trong nhiều loại công việc của chúng sanh.

  1. Cintāmaya Paññā - Tư sở thành tuệ

Tương tự, vị Bồ tát tu tập Tư sở thành tuệ/ Tư tuệ (Cintāmaya Paññā) bằng cách quán sâu vào các pháp tự nhiên, các thực tại cùng tột như các uẩn, v.v....

(Nghiên cứu cẩn thận, lắng nghe, học hỏi, ghi nhớ các pháp tự nhiên như các uẩn, v.v… là Văn sở thành tuệ - Sutamayā paññā. Trước tiên suy nghĩ rồi quán xét các pháp tự nhiên mà người ta ã nghiên cứu, học hỏi và ghi nhớ, là Tư sở thành tuệ - Cintāmaya paññā).

              (c) Bhāvanāmaya paññā - Tu sở thành tuệ

Tương tự, vị Bồ tát, người ã tu tập các loại trí thuộc thế tục về các pháp tự nhiên như các uẩn, v.v... qua việc phân biệt các tướng riêng cũng như tướng chung, và thực hành viên mãn phần ầu tiên của trí tuệ qua pháp thiền quán (Bhāvanāmaya paññā), ó là chín loại Tuệ quán (vipassanā-ñāṇa) như trí thấy rõ các pháp hữu vi (sammasanañāṇa), tánh vô thường, khổ và vô ngã của chúng, v.v...

Nhờ thành tựu viên mãn Tuệ quán như vậy, vị Bồ tát thông hiểu ầy ủ về các ối tượng trong thân và ngoài thân chỉ là hiện tượng danh và sắc: “ Nhóm của hiện tượng chỉ là danh sắc,  sanh khởi và hoại diệt tùy thuộc vào các duyên. Thực tế không có ai tạo ra chúng. Danh sắc là thực tại, sanh khởi chỉ ể hoại diệt. Vì vậy nó có tánh vô thường; có tánh bất toại nguyện vì sự sanh diệt liên tục của nó; không thể kiểm soát và iều khiển nó thế nên nó vô ngã.” Nhờ thông hiểu bản chất thật của các pháp trong thân và ngoài thân không có sự khác biệt, Ngài từ bỏ luyến ái ối với chúng và giúp chúng sanh cũng ược như vậy.

Suốt thời gian này trước khi chứng Phật quả, vị Bồ tát, với tâm ại bi, giúp chúng sanh bước vào ba cỗ xe ạo hành (paṭipatti) (nhờ ó mà chúng sanh có thể ạt ược sự trưởng thành trong ba loại Giác ngộ) hoặc ạt ến sự trưởng thành trong pháp hành của họ nếu họ ã bước vào ba cỗ xe ấy.

Riêng về vị Bồ tát, Ngài cố gắng thành ạt năm pháp thuần thục trong thiền hợp thế và các loại thần thông, với sự hỗ trợ to lớn của Định kết hợp với các tầng thiền và thần thông, Ngài ạt ến ỉnh cao của Trí tuệ.

(Về phương pháp tu tập các tầng thiền Hợp thế, các loại thần thông và mười loại Tuệ quán, bộ Thanh tịnh ạo (Vishuddhi-magga) sẽ giải thích rõ. Điều ặc biệt nên chú ý là trong sự tu tập trí tuệ của vị Thinh văn tương lai ược giải thích là lên ến giai oạn ắc ạo. Tuy nhiên trong bộ sách Thanh tịnh ạo, tất cả những cố gắng của vị Bồ tát trong việc tu tập thiền quán, có nền tảng là tâm Đại bi (Mahā-karunā) và Phương tiện thiện xảo trí (Upāya-kosalla ñāṇa), chỉ ạt ến pháp Thanh tịnh thứ sáu (Patipadā-ñānadassana-visudhi) thì dừng lại, không tiến sâu vào Đạo Quả (Ñānadassana-visudhi). Về mười giai oạn của Tuệ quán, sự tu tập trí tuệ chỉ ược thực hiện ến phần ầu của Hành xả trí (Saṅkhārupekkhā ñāṇa) mà thôi, chỉ chú ý ến chín giai oạn thấp hơn của Tuệ quán).

       (Đây là phương pháp thực hành Trí tuệ Ba-la-mật)

5. Phương pháp tu tập viên mãn Tinh tấn Ba-la-mật 

Như vị tướng soái, nhằm mục ích chiến thắng kẻ thù ã cố gắng không ngừng. Cũng vậy, vị Bồ tát tự mình tìm cách chinh phục kẻ thù phiền não và muốn những kẻ khác cũng làm những cuộc chinh phục tương tự với sự tinh tấn ể thành tựu viên mãn các Pháp Ba-la-mật.

Do ó, vị Bồ tát thường xuyên chánh niệm suy xét như vầy: “Ngày hôm nay ta ã tích lũy trí tuệ nào và các việc phước nào? Ngày hôm nay ta ã làm ược việc gì ể em lại phúc lợi cho mọi người.” Quán xét như vậy mỗi ngày, vị ấy tinh tấn làm việc ể phục vụ chúng sanh.

Để phục vụ chúng sanh, Ngài bố thí rộng rãi tất cả những vật sở hữu của mình, kể cả tứ chi và mạng sống. Tất cả mọi hành ộng về thân và khẩu của Ngài ều không ngoài mục ích là chứng ạt Nhất thiết trí. Tất cả những việc phước phát sanh từ những hành ộng như vậy ều ược Ngài cống hiến cho sự chứng ạt Giác ngộ tối thượng.

Ngài quay lưng với dục lạc bằng tâm thoát ly chúng dù chúng tốt ẹp và áng quí ến âu chăng nữa.

Trong mọi công việc, Ngài phát triển và ứng dụng Phương tiện thiện xảo trí (Upāya-kosalla ñāṇa)

Ngài luôn siêng năng phục vụ lợi ích cho chúng sanh.

Ngài nhẫn nại với tất cả mọi cảnh dù khả ái hay trái ý nghịch lòng.

Ngài vững vàng trong pháp chân thật, không rời khỏi nó dù phải hy sinh cả tánh mạng.

Ngài rải tâm từ ến tất cả chúng sanh không có sự phân biệt thân, thù hoặc không thân không thù. Cũng như người cha muốn lãnh lấy mọi phiền khổ của ứa con, Ngài muốn lãnh lấy tất cả mọi phiền khổ của chúng sanh.

Ngài hoan hỷ với những việc phước của tất cả chúng sanh. Ngài luôn luôn quán niệm về tánh chất vĩ ại của chư Phật và oai lực vĩ ại của các Ngài. Bất cứ hành ộng nào về thân hay khẩu, tâm của Ngài chỉ hướng về Giác ngộ Ba la mật. 

Bằng cách này, vị Bồ tát do thường xuyên chuyên tâm vào các việc phước như bố thí, v.v... Ngày qua ngày Ngài tích lũy phước báu và trí tuệ không ngừng.

Hơn nữa, sau khi từ bỏ tứ chi và mạng sống ể bảo vệ chúng sanh và cho họ tùy ý sử dụng chúng, Ngài tìm mọi phương sách ể xoa dịu au khổ của chúng sanh như ói, khát, lạnh, nóng, gió, nắng, v.v....

Bất cứ hạnh phúc nào mà Ngài có ược do oạn trừ những nỗi khổ của chúng sanh, sự an lạc của thân và tâm do kết quả của sự trú ngụ ở những khu vườn khả ái, những hồ nước trong, những chỗ ngụ trong rừng, sự an lạc trong thiền ịnh của chư Phật, chư Phật Độc giác, chư Thinh văn ệ tử và chư vị Bồ tát sau khi xuất gia, mà Ngài ã nghe người khác nói, Ngài muốn em tất cả hạnh phúc này ến tất cả chúng sanh không phân biệt.

Khi Ngài ã chứng ắc các tầng thiền, Ngài tinh tấn ban phát hạnh phúc của chúng như hỉ, lạc, tịnh, ịnh, trí thông hiểu các pháp như thật cho chúng sanh ể họ cũng ược thọ hưởng giống như Ngài.

Hơn nữa, Ngài thấy chúng sanh bị dập vùi trong cái khổ lớn của luân hồi (saṃsāra vaṭṭa dukkha), trong nỗi khổ do phiền não gây ra (kilesa dukkha), và trong nỗi khổ do nghiệp hành gây ra (abhisaṅkhāra dukkha).

Đây là cách Ngài trông thấy chúng sanh bị au khổ: Ngài thấy rõ chúng sanh tạo tội ang lãnh chịu au ớn tàn khốc ở các khổ cảnh (niriya), bị âm, chém, cắt xẻo, nghiền nát, bị thiêu ốt nóng cháy liên tục trong thời gian dài

Ngài trông thấy chúng sanh làm súc sanh ang trải qua nỗi khổ au do thù ịch nhau, áp bức nhau, gây ra sự thương tổn, giết hại nhau - hoặc phải làm việc vất vả ể phục vụ kẻ khác.

Ngài thấy rõ chúng sanh làm ngạ quỷ bị bao phủ trong những ngọn lửa hung tàn, bị thiêu ốt và héo úa bởi sự ói khát, gió nắng, v.v... sống bằng cái gì bị nôn ra, sống bằng nước dãi, àm, mủ v.v... ang vật vã kêu gào.

Ngài trông thấy một số chúng sanh ang tầm cầu phương tiện kiếm sống gây héo tàn thân xác, bị các loại cực hình như chặt tay, chặt chân, v.v... do những tội lỗi mà họ phạm phải; trông hung tợn, xấu xí và khuyết tật; bị lún sâu trong vũng lầy au khổ không khác gì nỗi khổ của những tội ồ trong ịa ngục. Một số người bị hành hạ bởi sự ói và khát do thiếu vật thực, ang chịu khổ giống như loài ngạ quỷ. Một số chúng sanh ông ảo và nghèo hèn bị chèn ép bởi những người có thế lực hơn, bị ép phải phục dịch cho họ và phải lệ thuộc vào người chủ ể kiếm miếng cơm manh áo. Ngài thấy nỗi khổ của họ không khác gì nỗi khổ của loài súc sanh.

Ngài trông thấy chư thiên của sáu cõi dục (là chúng sanh mà loài người xem là những kẻ hạnh phúc) ang au khổ trong phóng dật vì họ ã nuốt ‘chất ộc’ của dục lạc và ang bị ốt cháy bởi những ngọn lửa tham, sân và si, giống như một ống củi khô ang cháy lại bị những luồng gió mạnh thổi vào, không phút nào ược an tịnh, luôn luôn chiến ấu trong tuyệt vọng và lệ thuộc những kẻ khác chỉ ể tồn tại.

Ngài thấy các vị Phạm thiên ở các cõi hữu sắc và vô sắc - sau khi sống ở ó, trong thời gian tám mươi bốn ngàn ại kiếp (mahā-kappa), cũng phải chịu ịnh luật tự nhiên của vô thường và cuối cùng cũng phải chìm vào trong vòng luân hồi khổ au của sanh, già và chết giống như những con chim bị năng lực khổng lồ ẩy vào hư không hoặc những cây tên ược người àn ông khỏe mạnh bắn vào hư không.

Trông thấy sự au khổ của họ một cách sống ộng như vậy, Bồ tát cảm thấy kinh cảm (saṃvega), và rải tâm từ của Ngài ến tất cả chúng sanh trong ba mươi mốt cõi.

Bồ tát liên tục tích lũy các pháp cần thiết cho sự Giác ngộ bằng các thiện nghiệp về thân, ngữ và ý, bằng sự cố gắng không ngừng ể tất cả các pháp Ba-la-mật của Ngài ạt ến ỉnh cao của sự thành tựu viên mãn.

Lại nữa, pháp Tinh tấn có phận sự ưa Ngài ến Phật quả - nơi tích tụ những ân ức thanh tịnh, hùng mạnh vô song và bất khả tư nghì.

Người bình thường chỉ nghe về sự tinh tấn này của vị Bồ tát cũng không dám, nói chi ến việc thực hành.

Giải thích thêm:

Chỉ do năng lực của sự tinh tấn này mà Bồ tát phát triển, tích lũy và viên mãn các pháp cần thiết cho sự Giác ngộ - Ba ại nguyện về ạo quả Toàn giác Phật: Chứng ắc Phật quả (Buddho bodheyyaṃ), ạt sự giải thoát (mutto moceyyam) và vượt qua ại dương luân hồi (tiṇṇo tāreyyaṃ), bốn Phật ịa, Tứ nhiếp pháp, ại bi, sự quán xét về duyên vô song ối với ạo quả Phật do sự giác ngộ các Phật tánh, không bị ô nhiễm bởi ái dục, ngã mạn và tà kiến liên quan ến tất cả các pháp; xem tất cả chúng sanh như con ruột của mình; không có sự chán nản vì cái khổ của luân hồi trong khi phấn ấu cho mục tiêu ạo quả Phật. Chuyên tâm tu tập Tăng thượng giới, Tăng thượng ịnh và Tăng thượng tuệ, không lay chuyển trong sự thực hành ba pháp học này. Đầy hạnh phúc và hoan hỷ ối với các việc phước. Có khuynh hướng nghiêng về ba pháp viễn ly (Thân viễn ly - kāya viveka: xa lìa hội chúng, phe nhóm; Tâm viễn ly - citta viveka: xa lìa những ý nghĩ về dục lạc; Ý viễn ly – upadhi viveka: xa lìa phiền não). Chuyên tâm tu tập các tầng thiền. Không hề thỏa mãn với các pháp không thể chê trách ược. Thuyết pháp ến người nghe với thiện ý. Nỗ lực cố gắng nhiều ối với các việc phước ể thành tựu viên mãn các pháp Ba-lamật. Cố gắng liên tục ầy can ảm, không buồn phiền trước những lời chỉ trích và những lỗi lầm của kẻ khác. An trú vững chắc trong pháp chân thật. Thuần thục trong các tầng thiền (jhāna). Chứng ắc các pháp thần thông (abhiññā). Thông ạt ba ặc tánh (anicca, dukkha, anatta). Tích lũy những pháp cần thiết cho sự chứng ạt bốn ạo siêu thế qua sự thực hành Tứ niệm xứ (Satipatthāna), v.v.... Thành tựu chín pháp siêu thế (bốn Đạo, bốn Quả và Niết bàn). Tất cả những cố gắng trong sự tu tập, tích lũy và thành tựu các pháp cần thiết cho sự giác ngộ chỉ có thể xảy ra do năng lực của tinh tấn. Do ó, khi chứng ắc Phật quả, Bồ tát tu tập ể thành tựu pháp Tinh tấn một cách ầy ủ, không ngừng nghỉ, ầy nhiệt tâm, nhờ ó Ngài có thể tiến bộ ngày một cao hơn trong các pháp ưu việc.

Khi pháp Tinh tấn Ba-la-mật ầy dũng cảm này ã ược thành tựu viên mãn thì các pháp Ba-la-mật theo sau nó như Nhẫn nại, Chân thật, v.v... cũng như các pháp Ba-la-mật i trước nó như Bố thí, Giới, v.v… tất cả ược thành tựu viên mãn nhờ vào pháp Tinh tấn. Do ó, sự thành tựu viên mãn Nhẫn nại Ba-la-mật và những pháp Ba-la-mật khác nên ược hiểu theo cách này.

Như vậy, dứt bỏ của cải ể bố thí ngõ hầu em lại lợi ích và hạnh phúc cho kẻ khác là sự thành tựu quả Bố thí.

Không hủy hoại mà bảo vệ mạng sống tài sản và gia ình của chúng sanh, không gây ra sự bất ồng ý kiến, nói lời thân ái, có lợi ích, v.v... là sự thành tựu của Giới.

Cũng thế, làm nhiều việc lợi ích như thọ nhận bốn món vật dụng do chúng sanh dâng cúng và bố thí pháp ến họ là sự thành tựu của pháp Xuất gia. Thiện xảo trong các phương tiện làm gia tăng phúc lợi cho chúng sanh là sự thành tựu của pháp Trí tuệ. Nhiệt tâm phấn ấu, trải qua những khó khăn và không lơi là trong việc sử dụng phương tiện thiện xảo ấy là sự thành tựu của pháp Tinh tấn. Chịu ựng tất cả những iều sai trái của chúng sanh là sự thành tựu của pháp Nhẫn nại. Không dối gạt, không phá vỡ những iều ã hứa vì lợi ích của chúng sanh là sự thành tựu pháp Chân thật. Giữ tâm không bị lay chuyển dù phải chịu thiệt thòi về quyền lợi của mình, trong khi phục vụ chúng sanh là sự thành tựu pháp Chí nguyện. Thường xuyên quán niệm về lợi ích và hạnh phúc của chúng sanh là sự thành tựu pháp Bác ái; tâm bình thản, không dao ộng khi ược giúp ỡ hoặc bị quấy rầy bởi kẻ khác là sự thành tựu về pháp Xả.

Như vậy, Bồ tát tinh tấn tu tập ể tích lũy phước và trí tuệ vô song mà người bình thường không thể làm ược, vì vô lượng chúng sanh và sự thành tựu triệt ể những iều kiện căn bản của các pháp Ba-la-mật như ã nêu ra ở trên - tất cả những công việc này có thể ược xem là sự thực hành pháp thành tựu của các pháp Ba-la-mật.

11. Phân loại các pháp Pāramī 

Đối với câu hỏi, “Có bao nhiêu pháp Ba-la-mật?” Câu trả lời tóm tắt là “Có ba mươi pháp Ba-la-mật, ó là mười Ba-la-mật bậc hạ (Pāramī), mười Ba-la-mật bậc trung (Upapāramī) và mười Ba-la-mật bậc thượng (Paramattha pāramī).

(Về Bố thí Ba la mật, có ba bậc, ó là Dāna pāramī, Dāna Upapāramī Dāna Paramattha-pāramī. Chín Ba-la-mật còn lại cũng như thế, như vậy cả thảy là ba mươi Ba-la-mật.)

Pāramī, Upapāramī & Paramattha-pāramī 

Đối với câu hỏi: “Thế nào là Pāramī, Upapāramī và Paramatthapāramī?” Câu trả lời ược tìm thấy trong Chương Tạp phẩm của Chú giải bộ Cariyā Piṭaka. Trong ó, nhà Chú giải ưa ra câu trả lời rất chi tiết, nhiều cách diễn giải, nhiều quan iểm và những bài bình luận khác nhau của các vị A-xà-lê. Nếu ưa hết chúng vào trong tác phẩm này thì chỉ làm cho người ọc thêm rối rắm.  Thế nên chúng tôi chỉ nêu ra quan iểm rõ ràng nhất, ược chọn lọc bởi nhà Chú giải Mahā Dhammapāla Thera.

  1. Bố thí những vật ngoài thân như tài sản, vợ và con là Dānapāramī. Bố thí các phần của cơ thể như tay, chân, v.v... là Dāna Upapāramī. Bố thí sanh mạng của chính mình là Dāna

Paramattha-pāramī.

  1. Tương tự, thọ trì giới và không vì những vật ngoài thân như vợ, con và tài sản mà phạm giới là Sīla-pāramī. Thọ trì giới và không vì các phần của thân thể mà phạm giới là Sīla Upapāramī.

Thọ trì giới và không vì mạng sống của chính mình mà phạm giới là Sīla Paramattha-pāramī.

  1. Cắt ứt luyến ái ối với những vật ngoài thân và ra khỏi ời sống gia ình là Nekkhamma Pāramī. Cắt ứt luyến ái ối với các phần của thân thể và ra khỏi ời sống gia ình là Nekkhamma Upapāramī. Cắt ứt luyến ái ối với sanh mạng của chính mình và ra khỏi ời sống gia ình là Nekkhamma Paramattha-pāramī.
  2. Đoạn trừ luyến ái ối với những vật ngoài thân quyết ịnh kỹ lưỡng iều gì có lợi cho chúng sanh và iều gì không có lợi là Paññā Pāramī. Đoạn trừ luyến ái ối với các phần của cơ thể và quyết ịnh kỹ lưỡng iều gì có lợi ích cho chúng sanh và iều gì không có lợi ích là Paññā Upapāramī. Đoạn trừ luyến ái ối với sanh mạng của chính mình và quyết ịnh kỹ lưỡng iều gì có lợi ích cho chúng sanh và iều gì không có lợi là Paññā Paramattha-pāramī.
  3. Tinh tấn thực hành viên mãn và thành tựu các pāramī kể trên và những pāramī sẽ ược nêu sau là Vīriya Pāramī. Tinh tấn thực hành viên mãn và thành tựu các Upapāramī kể trên và những upapāramī sẽ ược nêu ra sau là Vīriya Upapāramī. Tinh tấn thực hành viên mãn và thành tựu các paramattha-pāramī kể trên và những paramattha-pāramī sẽ ược nêu ra sau là Vīriya- Paramattha-pāramī.
  4. Nhẫn nại chịu ựng những pháp thăng trầm gây nguy hiểm cho những vật ngoài thân của mình là Khantī Pāramī. Nhẫn nại chịu ựng những pháp thăng trầm gây nguy hiểm cho các phần của thân thể là Khantī Upa-pāramī. Nhẫn nại chịu ựng những pháp thăng trầm gây nguy hiểm cho tánh mạng của chính mình là Khantī Paramattha-pāramī.
  5. Không từ bỏ pháp chân thật vì những vật ngoài thân là Sacca Pāramī. Không từ bỏ pháp chân thật vì các phần thân thể như tay, chân, v.v... là Sacca Upapāramī. Không từ bỏ pháp chân thật vì sanh mạng của chính mình là Sacca Paramattha-pāramī.
  6. Quyết ịnh không lay chuyễn, bất chấp sự tổn thất các vật ngoài thân với niềm tin vững chắc rằng ‘các pháp ba-la-mật như bố thí, v.v..., có thể ược thực hành viên mãn chỉ nhờ quyết ịnh bất khả hoại’ là Adhiṭṭhāna Pāramī. Qưyết ịnh không lay chuyển, bất chấp sự tổn thương các phần của cơ thể như tay, chân, v.v... là Adhiṭṭhāna Upapāramī. Quyết ịnh không lay chuyển dầu phải mất cả mạng sống là Adhiṭṭhāna Paramattha-pāramī.
  7. Không từ bỏ pháp bác ái ối với chúng sanh (liên tục rải tâm từ ến chúng sanh) dù họ ã từng gây thiệt hại ến những vật ngoài thân của mình là Mettā Pāramī. Không từ bỏ pháp bác ái ối với chúng sanh dù họ ã từng gây tổn thương ến các phần cơ thể của mình như tay, chân, v.v... là Mettā Upapāramī. Không từ bỏ pháp bác ái ối với chúng sanh dù họ ã từng gây tai hại ến sinh mạng của chính mình là Mettā Pāramattha- pāramī.
  8. Giữ thái ộ bình thản ối với những hành vi cố ý của chúng sanh dù họ ã từng giúp ỡ hoặc làm tổn hại những vật ngoài thân của mình là Upekkhā Pāramī. Giữ tâm bình thản ối với chúng sanh và những hành vi cố ý của họ dù họ ã từng giúp ỡ hoặc làm tổn thương các phần thân thể của ta như tay, chân, v.v... là Upekkhā Upapāramī. Giữ tâm bình thản ối với chúng sanh và những hành vi cố ý của họ dù họ ã từng giúp ỡ hoặc làm hại ến tính mạng của ta là Upekkhā Paramattha-pāramī.

(Đây là cách phân loại các pháp Ba-la-mật)

                 12. Các pháp Pāramī  ược rút gọn như thế nào? 

Đối với câu hỏi: “Các pháp pāramī ược rút gọn như thế nào?, câu trả lời là:

Ba mươi pháp Ba-la-mật ược thâu gọn lại thành mười bằng cách gom các pháp cùng ặc tánh lại thành một nhóm (tức là gom ba loại

Dāna Pāramī thành một, ba loại Sīla Pāramī thành một, v.v...). Tương tự, mười pháp này có thể cô ọng lại thành sáu bằng cách gom các pháp Ba-la-mật có liên quan thành một nhóm, ó là Dāna Pāramī, Sīla Pāramī, Khantī Pāramī, Vīriya Pāramī, Jhāna Pāramī và Paññā Pāramī (Bố thí, Trì giới, Nhẫn nại, Tinh tấn, Thiền ịnh và Trí tuệ).

Đây là cách cô ọng các pháp Ba-la-mật: Xuất gia nghĩa là sống cuộc ời Sa-môn, tu thiền ịnh và các việc phước khác. Ở ây, xuất gia là sống cuộc ời Sa-môn, nên ược xem là Sīla Pāramī vì chúng có bản chất giống nhau. Cũng vậy, xuất gia là thiền ịnh, thoát khỏi năm triền cái, nên ược xem là Jhāna Pāramī, và xuất gia là việc phước phổ biến, có mặt trong cả sáu pháp Ba-la-mật.

Chân thật có ba loại: lời nói chân thật (vacī-sacca); xa lìa sự gian dối, hư ngụy (virati-sacca), là sở hữu Chánh ngữ (Sammā-vācā) và trí tuệ chân thật (ñāṇa-sacca), là sở hữu trí tuệ (paññā). Trong ba loại này, vacī-sacca virati-sacca liên quan ến sīla nên ược xem là Sīla Pāramī; còn ñāṇa-sacca là sở hữu trí tuệ nên ược xem là Paññā Pāramī.

Mettā Pāramī có bản chất tương tự với Jhāna Pāramī nên ược bao gồm trong Jhāna Pāramī.

Upekkhā Pāramī bao gồm sở hữu TatramajjhattatāPaññā. Tatramajjhattatā nên ược xem là Jhāna Pāramī vì nó có liên quan. Còn sở hữu Trí tuệ giống như Ñāṇupekkhā nên ược xem là Paññā Pāramī.

Adhiṭṭhānana Pāramī nên ược bao gồm trong cả 6 pháp Ba-lamật: Dāna, Sīla, Khantī, Vīriya, Jhāna và Paññā vì trong sáu pháp Ba-la-mật này ều có Adhiṭṭhāna (Quyết ịnh không lay chuyển).

Lợi ích của 6 pháp Ba-la-mật ược ghép thành từng cặp 

 

Trước hết 6 pháp Ba-la-mật ã ược rút gọn: Bố thí, Trì giới, Nhẫn nại, Tinh tấn, Thiền ịnh và Trí tuệ có thể ược ghép thành 15 cặp như sau:

  1. Dāna & Sīla  - Bố thí và Trì giới.        
  2. Dāna & Khantī - Bố thí và Nhẫn nại.
  3. Dāna &  Viriya - Bố thí và Tinh tấn.         
  4. Dāna &  Jhāna - Bố thí và Thiền ịnh. 
  5. Dāna &  Paññā - Bố thí và Trí tuệ.              
  6. Sīla & Khantī  - Trì giới và Nhẫn nại.
  7. Sīla & Viriya - Trì giới và Tinh tấn.         
  8. Sīla & Jhāna - Trì giới và Thiền ịnh.
  9. Sīla & Paññā - Trì giới và Trí tuệ.                      
  10. Khanti & Viriya - Nhẫn nại và Tinh tấn.  
  11. Khantī & Jhāna - Nhẫn nại và Thiền ịnh. 
  12. Khantī & Paññā - Nhẫn nại và Trí tuệ. 
  13. Vīriya & Jhāna - Tinh tấn và Thiền ịnh. 
  14. Vīriya & Paññā - Tinh tấn và Trí tuệ. 
  15. Jhāna & Paññā  - Thiền ịnh và Trí tuệ.

Bồ Tát thành tựu qua hai cặp:

  1. Dāna & Sīla, Bồ tát thành tựu hai iều phước là làm những việc lợi ích cho chúng sanh và xa lìa những iều có hại cho họ.
  2. Dāna & Khantī, Bồ tát thành tựu hai lợi ích là vô tham và vô sân.
  3. Dāna & Viriya, Bồ tát thành tựu hai iều phước là tánh hào phóng và a văn.
  4. Dāna &  Jhāna, Bồ tát thành tựu hai iều phước là từ bỏ dục lạc và sân hận.
  5. Dāna & Paññā, Bồ tát thành tựu hai iều phước là sự ịnh tâm và thiền quán; và hai iều phước khác là pháp học về giáo pháp (pariyatti) và thiền quán.
  6. Sīla & Khantī, Bồ tát thành tựu hai phước báu lợi ích là thân hạnh, khẩu hạnh thanh tịnh và thiên hướng thanh tịnh.
  7. Sīla & Vīriya, Bồ tát thành tựu hai iều phước là sự ịnh tâm và thiền quán.
  8. Sīla & Jhāna, Bồ tát thành tựu hai iều phước là oạn trừ  phiền não (vītikkama kilesa) và triền phiền não (pariyaṭṭhāna kilesa) (SīlaJhāna oạn trừ triền phiền não).
  9. Sīla & Paññā, Bồ tát thành tựu hai việc phước là vô úy thí (abhaya dāna) và pháp thí (dhamma dāna); vô úy thí có thể xảy ra chỉ khi nào có Sīla; và pháp thí có thể xảy ra chỉ khi nào có Paññā.
  10. Khantī & Viriya, Bồ tát thành tựu hai ức tánh là nhẫn nại và kiên trì; (các pháp thăng trầm của ời sống chỉ có thể vượt qua bằng nhẫn nại, và chỉ khi nào có tinh tấn, các việc phước mới ược làm một cách tận tâm tận ý).
  11. Khantī & Jhāna, Bồ tát thành tựu hai lợi ích là oạn trừ thù ịch khởi sanh từ sân hận và sự thiên vị khởi sanh từ tham (không có Khantī, người ta có khuynh hướng chống lại những iều không khả ái trong thế gian vì sự sanh khởi của sân hận; không có Jhāna, người ta dễ nghiêng về những cảnh khả ái trong thế gian vì sự sanh khởi của tâm tham).
  12. Khantī & Paññā, Bồ tát thành tựu hai lợi ích là thấu hiểu tánh vô ngã trong danh sắc (nāma rūpa) và tuệ quán thông ạt Niết bàn.
  13. Viriya & Jhāna, Bồ tát thành tựu hai lợi ích là tinh cần (paggaha) và tâm bất tán loạn (avikkhepa).
  14. Vīriya & Paññā , Bồ tát thành tựu hai lợi ích là làm chỗ dựa cho chúng sanh và chỗ dựa cho chính mình (chỗ nương tựa

cho chúng sanh nhờ Vīriya, chỗ nương tựa cho chính mình nhờ Paññā).  

  • Jhāna & Paññā, Bồ tát thành tựu hai lợi ích là sự ịnh tâm và quán Tuệ.

Lợi ích phát sanh từ những nhóm ba

Bồ tát thành tựu ba lợi ích do: 

  1. oạn trừ tham, sân và si là ba căn cội của mọi iều ác, nhờ dāna, sīlakhantī.
  2. rút ra tinh hoa từ tài sản, thân sắc và mạng sống của mình (vì chúng kết hợp với năm loại kẻ thù, nên tài sản và của cải không có những giá trị nội tại, giá trị thực của chúng là cho chúng i - dāna). Vì phải chịu nhiều loại bịnh nên thân không có thực chất mà thực chất của nó là sự thọ trì giới - sīla.  Cuối cùng khi kết thúc bằng sự hoại vong, mạng sống cũng không có thực chất. Thực chất của nó là sự tu tập thiền quán – Vipassanā.
  3. các việc phước về bố thí, trì giới và tu thiền nhờ nhóm ba  dāna, sīlajhāna.
  4. tài thí, vô úy thí và pháp thí nhờ dāna, sīlapaññā.

Tương tự, các lợi ích còn lại của nhóm 3 và 4 Ba-la-mật có thể suy ra từ các nhóm hai.

Bốn Trụ xứ (Adhiṭṭhāna)

Sau khi cho thấy mười Ba-la-mật ược rút gọn thành sáu bằng cách ưa các pháp tương tự về chung một mối, sáu Ba-la-mật này lại ược bao gồm trong bốn Trụ xứ.

  • Saccādhiṭṭhā - Đế trụ xứ 
  • Cāgādhiṭṭhāna  - Xả oạn trụ xứ 
  • Upasamādhiṭṭhāna  - Tịch tịnh trụ xứ  -  Paññādhiṭṭhāna - Trí tuệ trụ xứ.
  1. Saccādhiṭṭhā - Đế trụ xứ: Niết bàn là Chân lý tuyệt ối (Paramattha Sacca) cùng với những pháp hành khởi ầu dẫn ến Niết bàn (pubbabhāga paṭipadā), là  ngữ ế (vacisacca); ly vọng ngữ ế (virati sacca) là sở hữu chánh ngữ (sammāvācā); và trí ế (ñāṇa sacca) là sở hữu trí tuệ (paññā). (Ngữ ế, Ly vọng ngữ ế và Trí ế tạo thành trụ xứ nâng ỡ cho Bồ tát trụ vào trong suốt những kiếp luân hồi, thực hành các pháp Ba-la-mật và trong kiếp Ngài thành Phật. Niết bàn là chân lý tuyệt ối tạo thành trụ xứ cho vị Bồ tát khi Ngài thành Phật. Do ó, chúng tạo thành Đế trụ xứ (Saccādhiṭṭhāna.)
  2. Cāgādhiṭṭhāna - Xả oạn trụ xứ là sự oạn tất cả phiền não không dư sót bằng A-la-hán ạo và xả oạn các cảnh dục và các dục ái qua sự thực hành các pháp Ba-la-mật như dāna, v.v... ở giai oạn ầu khi Ngài là vị Bồ tát. (Bồ tát trong khi thực hành các pháp Ba-la-mật không thể oạn tận tất cả phiền não mà không còn dư sót. Ngài chỉ có thể xả ly các cảnh dục trong khả năng của Ngài qua pháp Bố thí Ba-la-mật, v.v... và xả oạn các phiền não dục một cách tạm thời (tadaṅga-pahāna) và xả oạn chúng bằng sự trấn phục (vikkhambhana-pahāna), Bồ tát xây dựng trụ xứ cho mình chỉ bằng cách này. Chỉ khi Ngài chứng ắc A-la-hán quả và Nhất thiết trí trở thành một vị Phật, Ngài mới an trú vững chắc trong trụ xứ, xả oạn hoàn toàn tất cả phiền não không còn dư sót. Do ó, sự xả oạn toàn bộ phiền não bằng A-la-hán ạo, sự xả oạn các cảnh dục và phiền não dục có tánh cách tạm thời và trấn phục, tất cả những sự xả oạn này tạo thành Xả oạn trụ xứ  - Cāgādhiṭṭhāna.
  3. Upasamādhiṭṭhāna - Tịch tịnh trụ xứ là sự vắng lặng hoàn toàn tất cả phiền não bằng A-la-hán ạo, sự lắng dịu khổ au trong luân hồi khi giác ngộ Niết bàn, sự xả oạn các phiền não tạm thời hoặc sự trấn phục qua việc thực hành các pháp Ba-la-mật như dāna, v.v... trong khi là  Bồ tát. (Khi vị Bồ tát ang thực hành các pháp Ba-la-mật, các phiền não và khổ của luân hồi chưa thể dập tắt triệt ể ược. Do ó, qua các pháp Ba-la-mật như dāna, v.v...  tạo thành phương tiện làm lắng dịu phiền não, vị Bồ tát chỉ xả oạn chúng tạm thời và bằng sự trấn phục mà thôi. Bằng những pháp hành như vậy, vị Bồ tát xây dựng cho chính Ngài trụ xứ tạm thời. Đến khi chứng ắc Phật quả, Ngài mới an trú vững chắc trong trụ xứ qua việc oạn tận hoàn toàn các phiền não và khổ luân hồi. Cho nên sự vắng lặng các phiền não và khổ luân hồi tạo thành Tịch tịnh trụ xứ - Upasamādhiṭṭhāna.
  4. Paññādhiṭṭhāna - Trí tuệ trụ xứ là A-la-hán quả tuệ (Arahattaphala) và Nhất thiết trí và tất cả các loại trí tuệ như phương tiện thiện xảo trí, v.v… ã khởi sanh trước kia trong dòng tâm của vị Bồ tát. (Trong những kiếp là Bồ tát, Ngài trú trong các loại trí tuệ như phương tiện thiện xảo trí, v.v... Đến khi chứng ắc ạo quả Phật, Ngài mới an trú vững chắc trong trụ xứ của A-la-hán quả tuệ và Nhất thiết trí. Do ó, tất cả các loại trí tuệ ã nêu ra ở trên tạo thành Trí tuệ trụ xứ - Paññādhiṭṭhāna).

Đối với những kẻ phàm phu thiểu trí, chỉ biết nương tựa vào các cảnh dục và phiền não dục. Những cảnh dục và phiền não dục này tạo thành chỗ nương tựa của họ. Đối với vị Bồ tát thấy rõ mối nguy hiểm trong chúng, Ngài an trú trong bốn trụ xứ của chân thật (sacca), xả oạn (cāga), tịch tịnh (upasama) và trí tuệ (paññā). Những trụ xứ này ưa Ngài từ các cảnh dục, phiền não dục ến chỗ giải thoát, tức Niết bàn. Do ó, bốn yếu tố này tạo thành những trụ xứ dành cho vị Bồ tát.

Sự thành tựu bốn Trụ xứ xảy ra trong dòng tâm của vị Bồ tát như thế nào 

Sau khi nhận ược sự thọ ký thành Phật, Bồ tát suy xét các pháp Ba-la-mật bằng Ba-la-mật Tư trạch trí (Pāramī-pavicaga ñāṇa). Sau khi ã làm như vậy, Ngài phát nguyện thực hành viên mãn tất cả các pháp Ba-la-mật. Rồi Ngài tiếp tục thực hành viên mãn chúng úng với lời nguyện này. Như vậy Đế trụ xứ (Saccādhiṭṭhā) hiện khởi trong dòng tâm của vị Bồ tát.

Trong khi các pháp Ba-la-mật ang ược thực hành viên mãn thì có sự xả oạn các phiền não ối nghịch với chúng và cũng xảy ra sự xả oạn các cảnh dục và phiền não. Như vậy Xả oạn trụ xứ

(Cāgādhiṭṭhāna) cũng hiện khởi.

Vì có sự diệt tắt các phiền não do oai ức của các pháp Ba-la-mật nên Tịch tịnh trụ xứ (Upasamādhiṭṭhāna) cũng hiện khởi.

Qua những pháp Ba-la-mật này, Bồ tát có ược Phương tiện thiện xảo trí (Upāya-kosalla ñāṇa) và Trí tuệ trụ xứ (Paññādhiṭṭhāna) cũng hiện khởi.

(Điều muốn nói ở ây là : Bất cứ khi nào vị Bồ tát thực hành 10 pháp Ba-la-mật hoặc 6 Ba-la-mật, hoặc bất cứ khi nào Ngài thực hiện các việc phước có liên quan ến các pháp Ba-la-mật thì có sự hiện khởi trong dòng tâm của vị Bồ tát: (i) Saccādhiṭṭhā - Đế trụ xứ là sự cố gắng không suy thối ể thực hành lời nguyện của Ngài; (ii) Cāgādhiṭṭhāna - Xả oạn trụ xứ là sự oạn trừ các phiền não ối nghịch với các pháp Ba-la-mật; (iii) Upasamādhiṭṭhāna - Tịch tịnh trụ xứ là sự tắt lịm các phiền não; (iv) Paññādhiṭṭhāna - Trí tuệ trụ xứ là thiện xảo trong các phương tiện em lại phúc lợi cho chúng sanh. Do ó, sáu pāramī ược cô ọng thành bốn trụ xứ (adhiṭṭhana): chân thật (sacca), xả oạn (cāga), tịch tịnh (upasama) và trí tuệ (paññā).

Khi một người chuyên tâm vào một công việc kinh doanh trong sạch, thấy nó có lợi như ã dự ịnh, người ấy tiếp tục eo uổi công việc kinh doanh ấy với sự siêng năng và nhiều tinh tấn hơn. Ở ây lợi ích phát sanh từ công việc kinh doanh ban ầu là nguyên nhân, sự siêng năng và tinh tấn gia tăng trong việc theo uổi công việc là kết quả của nguyên nhân ấy.

Tương tự, khi Bồ tát bắt tay thực hiện những việc phước thuộc Bala-mật, Ngài thọ hưởng lợi ích của những việc phước này dưới dạng Bốn trụ xứ, ó là vị ngọt của ngữ chơn thật (vacissacca); sự oạn trừ các phiền não (cāga); sự diệt tắt ngọn lửa phiền não (upasamā); và phương tiện thiện xảo trí (upāya-kosalla ñāṇa). Ngài tiếp tục làm những việc phước về Ba-la-mật này với sự siêng năng và gia tăng sức tinh tấn từ kiếp này sang kiếp khác. Ở ây lợi ích của những việc phước này dưới dạng Bốn trụ xứ là nguyên nhân và những việc phước về Ba-la-mật ược lập i lập lại bằng sự siêng năng và sức tinh tấn gia tăng là kết quả của nguyên nhân ấy. Nên hiểu rằng sự xảy ra của những việc phước về Ba-la-mật và sự xảy ra của bốn Trụ xứ là một, chỉ khác nhau về cách gọi mà thôi.

Mô tả chi tiết hơn:

  1. Trong quá trình thực hiện các việc phước về Dāna Pāramī, Bồ tát hướng những lợi ích phát sanh từ (a) Saccādiṭṭhāna - Đế trụ xứ là sự thực hành bố thí vững chắc theo úng ý nguyện của Ngài: “Ta sẽ bố thí khi thấy người tầm cầu vật thí”; (b) Cāgādhiṭṭhāna - Xả oạn trụ xứ là sự oạn tận bỏn xẻn, v.v... ối nghịch với pháp bố thí; (c) Upasamādhiṭṭhāna - Tịch tịnh trụ xứ  là sự diệt tắt tâm tham ối với các vật thí, tâm sân (xảy ra ối với những người miễn cưỡng bố thí) ối với những người ến xin vật thí; tâm si về sự bố thí (trạng thái si mê thường hay xảy ra ối với người không quen bố thí) vì sợ hao tổn; (d) Paññādhiṭṭhāna - Trí tuệ trụ xứ  là sự bố thí úng lúc như ã dự ịnh, do trí tuệ hướng ạo.

Sau khi hưởng lợi ích của Bốn trụ xứ này, vị Bồ tát tiếp tục phát triển pháp Bồ tát Ba-la-mật nhiều hơn nữa.

  1. Tương tự, trong quá trình thực hành Sīla Pāramī, Bồ tát thọ hưởng lợi ích phát sanh từ (a) Saccādiṭṭhāna là sự không vi phạm các giới cấm úng theo lời nguyện của Ngài; (b) Cāgādhiṭṭhāna

sự oạn trừ bất thiện tư và các tội ác; (c) Upasamādhiṭṭhāna là sự diệt tắt iều tai hại do các bất thiện nghiệp gây ra; (d)

Paññādhiṭṭhāna là trí tuệ giữ vai trò chủ chốt.

Sau khi hưởng lợi ích của Bốn trụ xứ này, vị Bồ tát càng tu tập Giới Ba-la-mật hơn nữa.

  1. Trong quá trình thực hành pháp Khantī Pāramī, Bồ tát thọ hưởng lợi ích phát sanh từ (a) Saccādiṭṭhāna là sự thực hành pháp nhẫn nại một cách bền bỉ úng với lời nguyện của Ngài; (b) Cāgādhiṭṭhāna là sự oạn trừ những ý nghĩ bất thiện gây ra bởi hành vi và lời nói ác của kẻ khác; (c) Upasamādhiṭṭhāna là sự diệt tắt sân ác; (d) Paññādhiṭṭhāna là trí tuệ giữ vai trò chủ chốt.

Sau khi hưởng lợi ích của Bốn trụ xứ này, Bồ tát tiếp tục phát triển Nhẫn nại Ba-la-mật nhiều hơn nữa.

  1. Trong quá trình thực hành pháp Viriya Pāramī, Bồ tát thọ hưởng lợi ích phát sanh từ (a) Saccādiṭṭhāna là công việc em phúc lợi ến chúng sanh úng với lời nguyện của Ngài; (b) Cāgādhiṭṭhāna là sự oạn trừ tánh dễ duôi, làm việc dang dở. (c) Upasamādhiṭṭhāna là sự diệt tắt của sự tổn hại do bất thiện pháp gây ra; (d) Paññādhiṭṭhāna là trí tuệ giữ vai trò chủ chốt.

Sau khi hưởng lợi ích của Bốn trụ xứ này, vị Bồ tát tiếp tục phát triển Tinh tấn Ba-la-mật nhiều hơn nữa.

  1. Trong quá trình thực hành Jhāna Pāramī, Bồ tát thọ hưởng lợi ích phát sanh từ (a) Saccādiṭṭhāna là sự suy nghĩ sâu sắc và tầm cầu phúc lợi cho toàn thể thế gian úng với lời nguyện của Ngài; (b) Cāgādhiṭṭhāna là sự oạn trừ các triền cái; (c)

Upasamādhiṭṭhāna là sự an tịnh của tâm; (d) Paññādhiṭṭhāna là trí tuệ giữ vai trò chủ chốt.

Sau khi hưởng lợi ích của Bốn trụ xứ này, Bồ tát tiếp tục phát triển Thiền ịnh Ba-la-mật nhiều hơn nữa.

  1. Trong quá trình thực hành pháp Paññā Pāramī, Bồ tát thọ  hưởng lợi ích phát sanh từ (a) Saccādiṭṭhāna là sự thiện xảo trong các phương tiện em lại lợi ích cho chúng sanh úng với lời nguyện của Ngài; (b) Cāgādhiṭṭhāna là sự oạn trừ các tà ạo và các ác nghiệp; (c) Upasamādhiṭṭhāna là sự diệt tắt mọi hình thức lo âu, bồn chồn do vô minh gây ra, (d) Paññādhiṭṭhāna là trí tuệ óng vai trò chủ chốt.

Sau khi hưởng lợi ích của bốn Trụ xứ (adhiṭṭhana) này, Bồ tát tiếp tục phát triển Trí tuệ Ba-la-mật (Paññā Pāramī) nhiều hơn nữa.

Như vậy trong mọi việc phước về pāramī ều có sự hiện diện của bốn Trụ xứ (adhiṭṭhana), cho nên có thể nói rằng sáu pāramī ược bao gồm trong bốn Trụ xứ (adhiṭṭhana).

Bốn Trụ xứ ược xem là Một Trụ xứ  

Cũng như sáu pháp pāramī ược bao gồm trong bốn Trụ xứ, cũng vậy mỗi trụ xứ có thể ược xem là bao trùm ba trụ xứ còn lại. Sau ây là cách bao gồm mỗi trụ xứ (adhiṭṭhana).

Như Đế trụ xứ    (Saccādiṭṭhāna), các trụ xứ Xả      oạn (Cāgādhiṭṭhāna),    Tịch    tịnh     (Upasamādhiṭṭhāna)          và          Trí      tuệ (Paññādhiṭṭhāna) có bản chất thi hành trung thực úng với lời nguyện nên có thể ược bao gồm trong Đế trụ xứ (Saccādiṭṭhāna).

Như Cāgādhiṭṭhāna, Saccādiṭṭhāna, UpasamādhiṭṭhānaPaññādhiṭṭhāna vì có bản chất oạn trừ các yếu tố ối nghịch và là kết quả của sự từ bỏ hoàn toàn nên có thể ược bao gồm trong Cāgādhiṭṭhāna 

Như Upasamādhiṭṭhāna, Saccādiṭṭhāna, CāgādhiṭṭhānaPaññādhiṭṭhāna vì có bản chất diệt tắt sức nóng của các ác nghiệp và phiền não gây ra, nên có thể ược bao gồm trong Upasamādhiṭṭhāna.

Saccādiṭṭhāna, CāgādhiṭṭhānaUpasamādhiṭṭhāna i theo kẻ hướng ạo là paññā nên có thể ược bao gồm trong Paññādhiṭṭhāna.

Các Trụ xứ em lại lợi ích như thế nào? 

Như vậy tất cả các pháp pāramī ều có sự khởi ầu bằng Đế trụ xứ (Saccādiṭṭhāna) - chúng hiện khởi qua Xả oạn trụ xứ

(Cāgādhiṭṭhāna), lớn mạnh do nhờ Tịch tịnh trụ xứ (Upasamādhiṭṭhāna), xa lìa các phiền não nhờ Trí tuệ trụ xứ (Paññādhiṭṭhāna) và trở nên thanh tịnh.

Hơn nữa, trong giai oạn ầu của các pháp pāramī, Saccādiṭṭhāna giữ vai trò chủ ạo, chỉ với Saccādiṭṭhāna, sự thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật mới có thể bắt ầu. Ở giai oạn giữa, Cāgādhiṭṭhāna giữ vai trò chủ ạo, sau khi bắt ầu thực hành viên mãn các pháp pāramī bằng Saccādiṭṭhāna, nó ược tiếp tục ở giai oạn giữa bằng sự xả ly cả thân và mạng sống của chính mình ể em lại lợi ích cho chúng sanh bằng Cāgādhiṭṭhāna. Ở giai oạn cuối, Upasamādhiṭṭhāna giữ vai trò chủ ạo, bằng sự diệt tắt tất cả au khổ của luân hồi, phận sự thực hành viên mãn các pháp pāramī mới kết thúc.

Paññādhiṭṭhāna tối cao trong cả ba thời kỳ ầu, giữa và cuối. Chỉ với trí tuệ, các pháp pāramī mới có thể bắt ầu, sự xả ly toàn bộ thân thể và mạng sống của ta mới có thể thực hiện ược và sự diệt tắt rốt ráo au khổ của luân hồi mới có thể xảy ra.

Tất cả bốn trụ xứ này thường xuyên làm gia tăng lợi ích  cho chính mình và mọi người, ược mọi người yêu mến và kính trọng. Trong bốn trụ xứ này, qua SaccādiṭṭhānaCāgādhiṭṭhāna, Bồ tát khi là cư sĩ  em lại lợi ích cho chúng sanh bằng sự bố thí vật chất. Qua Upasamādhiṭṭhāna, Paññādhiṭṭhāna - khi là ạo sĩ, Bồ tát ã bố thí Pháp ến chúng sanh.

Sự thành tựu bốn Trụ xứ xảy ra trong kiếp chót của Bồ tát khi

Ngài thành một vị Phật như thế nào 

GHI CHÚ MỞ ĐẦU:

Trong việc giải thích các quan iểm khác nhau của các vị A-xà-lê trong các luận thuyết, chúng ược gọi là Eke vāda hay Aññe vāda khi các vị A-xà-lê này có những khả năng chuyên môn xứng áng làm thầy của tác giả. Khi họ có những khả năng chuyên môn bằng với tác giả, thì tác giả gọi những quan iểm của họ là Apare vādä Nếu họ kém hơn tác giả thì tác giả gọi quan iểm của họ là Keci vāda.

Phương pháp ghi chép theo truyền thống này ược lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Eke hay aññe có nghĩa là những người xứng áng làm thầy của tác giả. Apare nghĩa là những người có khả năng chuyên môn bằng với tác giả, và Keci ám chỉ những người kém hơn tác giả.

Eke vāda 

Nói về sự thành tựu của bốn Trụ xứ (Adiṭṭhāna) xảy ra trong kiếp chót của Bồ tát, các vị A-xà-lê bậc thầy cho rằng bốn Trụ xứ ã ược thành tựu viên mãn vào lúc Bồ tát nhập thai (sự nhập thai của Bồ tát trong kiếp chót của Ngài chỉ xảy ra khi các pháp Ba-la-mật ã ược thành tựu viên mãn, cũng vậy nó chỉ xảy ra khi nào bốn Trụ xứ ạt ến chỗ thành tựu viên mãn).

Lời giải thích của các vị a-xà-lê bậc thầy này là  -  Sau khi ã thành tựu viên mãn Trí tuệ trụ xứ (Paññādhiṭṭhāna) vào lúc giáng sanh vào lòng mẹ, trong khi nằm mười tháng trong bào thai và khi ra khỏi bào thai, Bồ tát luôn luôn có chánh niệm và giác tỉnh. Những kẻ phàm phu không biết họ ang tái sanh vào lòng mẹ, họ cũng không biết mình ang ở trong bào thai mẹ và lúc ược sanh ra. Tám mươi vị Thinh văn tương lai cũng biết rõ sự kiện sanh vào lòng mẹ của họ, nhưng họ không biết thời gian ở trong bào thai và lúc ra khỏi bào thai. Hai vị Đại ệ tử tương lai và chư Phật Độc giác tương lai biết rõ lúc họ tái sanh vào lòng mẹ và trong khi ở trong bào thai, nhưng không biết rõ lúc ra khỏi bào thai. Thực tế thì những Đại ệ tử ương lai và chư ương lai Phật ộc giác, khi gần tới thời kỳ sanh nở, bị sức ép bên trong bào thai ẩy ra cửa mình của người mẹ, bị nhào lộn tựa như ang chìm xuống vực sâu; rồi họ phải chịu au ớn cùng cực khi ang ra khỏi cửa mình của người mẹ, giống như con voi lớn ra khỏi cái hang có cửa hẹp. Những vị Đại ệ tử ương lai và chư ương lai Phật Độc giác  không biết rằng họ ang ra khỏi bào thai của mẹ. Bằng cách này, ta nên có sự kinh cảm sâu sắc bằng cách quán sự khổ cùng cực của sự sanh như sau: “Ngay cả những nhân vật ã thành tựu các pháp Pāramī cũng phải chịu au ớn mãnh liệt trong trường hợp như vậy!”

Tuy nhiên ối với chư vị Bồ tát sẽ thành Phật trong kiếp chót, các Ngài biết rõ ba sự kiện liên quan ến sự thọ sanh vào lòng mẹ, lúc ở trong bào thai và lúc ản sanh. Sức ép bên trong bào thai không ủ khả năng làm ảo lộn thân xác của các Ngài. Vào lúc sanh, các Ngài luôn ra khỏi lòng mẹ với hai tay duỗi thẳng, mắt mở và ứng thẳng vững chắc. Ngoài chư Phật ương lai, không một ai có chánh niệm về ba biến cố này. Do ó, vào lúc thọ sanh vào lòng mẹ và lúc ản sanh, mười ngàn luân vi thế giới ều chấn ộng dữ dội (Chú giải bộ Dīgha Nikāya, cuốn 3).

Sau khi ã thành tựu viên mãn Saccādiṭṭhāna - Đế trụ xứ, vừa sanh ra, Bồ tát i bảy bước về hướng bắc, và sau khi dò xét tất cả các hướng một cách dũng cảm, Ngài ba lần phát chơn ngôn uy dũng như tiếng gầm của chúa tể sơn lâm: “Ta là bậc Tối thượng trong thế gian (aggo’haṃ asmi lokassa). Ta là bậc Tối thắng trong thế gian (jettho’haṃ asmi lokassa). Ta là bậc Tối thượng tôn trong thế gian (settho’haṃ asmi lokassa).”

Sau khi thành tựu viên mãn Upassamādiṭṭhāna - Tịch tịnh trụ xứ, khi Ngài thấy bốn iềm tướng, người già, người bịnh, người chết, và người xuất gia thì tánh ngã mạn do tuổi trẻ, sức mạnh, sự trường thọ và phú quý diệt ngay trong dòng tâm của Bồ tát vì Ngài có sự hiểu biết sâu sắc về bốn phần Giáo pháp (Dhammuddesa) -  là sự au khổ của thân do bởi tuổi già, bịnh tật, sự chết, và cách thoát khỏi tình trạng nô lệ do lòng tham ối với các dục lạc và tài sản, không thể có ược cách thoát nếu không có sự xả ly hoàn toàn lòng tham ấy ( ược ưa ra trong Ratthapāla Sutta).

Sau khi ã thành tựu viên mãn Cāgādiṭṭhāna - Xả oạn trụ xứ, Bồ tát bỏ lại tất cả thân thích và quyến thuộc trong hoàng cung không chút quan tâm. Ngài từ bỏ vương quyền mà Ngài ang thọ hưởng và quyền bá chủ của vị Chuyển luân vương sắp ến với Ngài.

Đây là phần trình bày của các vị A-xà-lê bậc thầy. Nhà Chú giải Mahā Dhammapāla không bình luận gì về Eke vāda này.

Keci vāda

Theo các vị A-xà-lê, bốn Trụ xứ (Adiṭṭhāna) ược thành tựu viên mãn chỉ khi nào chứng ắc Phật quả. Các vị giải thích là: Khi Ngài thành Phật (sự chứng ắc A-la-hán ạo tuệ và Nhất thiết trí) do nhờ sự tích lũy Saccādiṭṭhāna - Đế trụ xứ trong quá khứ úng với lời nguyện của Ngài, Ngài thông ạt Tứ thánh ế, Saccādiṭṭhāna ược thành tựu viên mãn vào lúc ấy. Do nhờ Xả oạn trụ xứ, Cāgādiṭṭhāna ược ược tích lũy trong quá khứ nên Ngài oạn tận tất cả phiền não, cho nên Xả oạn trụ xứ ược thành tựu viên mãn vào lúc ấy. Do nhờ Tịch tịnh trụ xứ, Upassamādiṭṭhāna ã tích lũy trong quá khứ, Ngài ạt ược sự an lạc siêu phàm nhất của Niết bàn khi thành Phật, cho nên Tịch tịnh trụ xứ ược thành tựu viên mãn vào lúc ấy. Do nhờ Trí tuệ trụ xứ, Paññādhiṭṭhāna ã ược tích lũy trong quá khứ, Ngài ạt ược Vô chướng trí (anāvaraṇa ñāṇa) biết rõ tất cả những gì cần biết, cho nên Trí tuệ trụ xứ, Paññādhiṭṭhāna ược thành tựu viên mãn vào lúc ấy.

Nhà chú giải Mahā Dhammapāla có nhận xét về bài giải thích này như sau: “Lời giải thích của họ không ược hoàn hảo bởi vì Chánh ẳng giác (Abhisambodhi), tức A-la-hán ạo tuệ hay Nhất thiết trí, là thực tại tuyệt ối. Vì Tịch tịnh trụ xứ, Upassamādiṭṭhāna có nghĩa là sự diệt tắt hoàn toàn do khổ luân hồi không còn sanh khởi hay do sự an lạc hoàn toàn và vì iều này có thể ạt ược chỉ vào lúc tịch diệt

(parinibbāna).”

Aññe vāda 

Tuy nhiên các vị thầy Aññe thì cho rằng bốn Trụ xứ (Adiṭṭhāna) ược thành tựu viên mãn trong trường hợp bài kinh Chuyển pháp luân ược thuyết giảng (khi Đức Phật vận dụng Thuyết thị trí - Desanā ñāṇa).

Đây là bài giải thích của các vị thầy Aññe: “Saccādiṭṭhāna - Đế trụ xứ mà Đức Phật ã tích lũy trong quá khứ ược thành tựu trong luồng tâm thức của Ngài qua sự thuyết giảng Tứ Thánh ế theo ba cách là saccañāṇa (trí biết về chân ế), kiccañāṇa (trí biết về việc phải làm) và katañāṇa (trí biết về việc ã làm) ối với mỗi ế trong Tứ thánh ế. Cāgādiṭṭhāna - Xả oạn trụ xứ mà Đức Phật ã tích lũy trong quá khứ ược thành tựu viên mãn trong luồng tâm thức của Ngài qua sự bố thí vĩ ại về chánh pháp. Upassamādiṭṭhāna - Tịch tịnh trụ xứ mà Đức Phật  tích lũy trong quá khứ ược thành tựu viên mãn trong luồng tâm thức của Ngài sau khi tự mình chứng ạt sự an lạc của giải thoát tất cả phiền não và giúp những kẻ khác cũng ạt ược như thế. Paññādhiṭṭhāna - Trí tuệ trụ xứ mà Đức Phật ã tích lũy trong quá khứ ược thành tựu viên mãn trong luồng tâm thức của Ngài qua sự thấy biết ầy ủ tất cả thiên hướng của chúng sanh.

Nhà Chú giải Mahā Dhammapāla có nhận xét về bài giải thích quan iểm của các vị thầy aññe như sau: “Lời giải thích của các vị thầy aññe cũng không hoàn hảo vì bốn Trụ xứ ược thành tựu viên mãn chỉ khi nào các phận sự của một vị Phật ã xong. Qua sự thuyết giảng bài kinh Chuyển pháp luân, Đức Phật chỉ mới bắt ầu làm các phận sự của Ngài, Ngài chưa làm xong các phận sự ấy. Cho nên lời giải thích của các vị thầy aññe vẫn chưa ầy ủ.

Apare vāda 

Các vị thầy Apare cho rằng bốn Trụ xứ ược thành tựu viên mãn vào lúc Đức Phật tịch diệt (parinibbāna).

Đây là lời giải thích của các vị thầy apare: “Trong bốn phương diện Đế trụ xứ thì Niết bàn, tức Paramattha Saccādhiṭṭhāna, là ệ nhất, phận sự của nó chưa hoàn thành do chỉ chứng ắc A-la-hán ạo qua sự diệt tắt các phiền não (kilesa parinibbāna).

Phận sự của nó ược hoàn thành chỉ khi nào kiếp sống chấm dứt bằng sự diệt tắt các uẩn (khandha parinibbāna). Chỉ khi ấy Saccādhiṭṭhāna - Đế trụ xứ mới ược viên thành. Vào lúc ấy, tất cả bốn uẩn, là dục uẩn (kāmupadhi), thân uẩn (khandhupadhi), phiền não uẩn (kilesupadhi) và hành uẩn (abhisaṅkhārupadhi) ều bị loại bỏ nên Cāgādiṭṭhāna - Xả oạn trụ xứ ược viên thành. Khi ấy vì tất cả các hành ều diệt nên Upassamādiṭṭhāna - Tịch tịnh trụ xứ ược viên thành. Cũng vào thời iểm ó, tất cả mục ích của trí tuệ ều ạt ược nên Paññādhiṭṭhāna - Trí tuệ trụ xứ ược viên thành”. Đây là quan iểm của các vị thầy apare. Nhà chú giải Mahā Dhammapāla không có lời bình luận nào về quan iểm của họ nhưng ưa ra lời giải thích riêng của mình ể bổ túc vào ó: (a) Sự thành tựu viên mãn Saccādhiṭṭhāna ặc biệt rõ ràng vào lúc ản sanh; (b) Sự thành tựu viên mãn Paññādhiṭṭhāna ặc biệt rõ ràng vào lúc Ngài thành ạo; (c) Sự thành tựu viên mãn Cāgādiṭṭhāna ặc biệt rõ ràng khi Ngài thực hiện sự bố thí vĩ ại về Pháp qua sự thuyết giảng bài kinh Chuyển pháp luân, (d) Sự thành tựu viên mãn Upassamādiṭṭhāna ặc biệt rõ ràng khi Ngài giác ngộ Niết bàn .

Tóm tắt quan iểm của những vị A-xà-lê

  1. Các vị thầy Eke cho rằng bốn Trụ xứ ược thành tựu viên mãn trong trường hợp ầu tiên khi sự thọ sanh vào lòng mẹ xảy ra trong kiếp chót.
  2. Các vị thầy Keci cho rằng bốn Trụ xứ ược thành tựu viên mãn trong trường hợp thứ hai khi thành ạo.
  3. Các vị thầy Aññe cho rằng bốn Trụ xứ ược thành tựu viên mãn trong trường hợp thứ ba khi bài kinh Chuyển pháp luân ược thuyết giảng.
  4. Các vị thầy Apare cho rằng bốn Trụ xứ ược thành tựu viên mãn trong trường hợp thứ tư khi Đức Phật viên tịch Đại bát Niết bàn.

Tuân theo truyền thống của các tác giả là nói lên quan iểm của mình ở cuốí tác Phẩm, ại ức Mahā Dhammapāla nêu ra quan iểm cuối cùng, là apare vāda, vì vị ấy tán ồng quan iểm ấy và chấp nhận nó bằng lời nhận xét bổ túc như sau: “Bốn Trụ xứ ược thành tựu viên mãn chỉ trong trường hợp thứ tư khi Đức Phật viên tịch Đại-bát-Niếtbàn úng như lời giải thích của các vị thầy Apare. Tuy nhiên, iều ặc biệt rõ ràng là Saccādhiṭṭhā ược thành tựu viên mãn ở trưởng hợp thứ nhất; Paññādhiṭṭhāna ở trường hợp thứ hai; Cāgādhiṭṭhāna ở trường hợp thứ ba; Và Upasamādhiṭṭhāna  ở trường hợp thứ tư.”

Những lợi ích của các Trụ xứ 

Qua Saccādiṭṭhāna thì giới thanh tịnh, qua Cagādiṭṭhāna thì sự nuôi mạng ược thanh tịnh, qua Upasamādiṭṭhāna thì tâm thanh tịnh, qua Paññādiṭṭhāna thì trí tuệ thanh tịnh.

Hơn nữa, qua Saccādiṭṭhāna (vì không i lệch khỏi pháp chân thật), Ngài không theo cách hành xử sai lệch của sân. Qua Cagādiṭṭhāna (vì không bị tham luyến vào các vật dục), Ngài không theo cách hành xử sai trái của tham. Qua Upasamādiṭṭhāna (vì hoàn thiện) và vì không có gì ể sợ hãi nên Ngài không theo cách hành xử sai lầm của sợ hãi; và qua Paññādiṭṭhāna (vì thấy các pháp như thật), Ngài không theo cách hành xử sai lầm của si mê.

Thêm nữa, qua Saccādiṭṭhāna, Ngài có thể chịu ựng không chút nóng giận với các iều phiền toái do lạnh, nóng, ói khát gây ra; do tiếp xúc với ruồi muỗi, gió nắng, các loài bò sát; những lời mắng chửi, càu nhàu của kẻ khác và những chứng bịnh au ớn. Qua Cagādiṭṭhāna, Ngài sử dụng bốn món vật dụng là y phục, vật thực, chỗ ngụ và thuốc men mà không có sự chấp thủ sanh khởi do tham. Qua Upasamādiṭṭhāna, Ngài tránh ược các nguy hiểm do voi dữ, ngựa hoang, chó dữ và thú hoang gây ra nhờ giữ tâm vắng lặng tuyệt ối. Qua Paññādiṭṭhāna, Ngài sáng suốt loại trừ những ý nghĩ tà vạy về dục lạc, sân, hại cũng như những yếu tố bất thiện.

Qua Saccādiṭṭhāna, Ngài ạt ược hạnh phúc của sự xuất gia. Qua Cagādiṭṭhāna, Ngài hưởng ược hạnh phúc của ời sống ộc cư. Qua Upasamādiṭṭhāna, Ngài hưởng ược sự an lạc và qua Paññādiṭṭhāna, Ngài hưởng ược hạnh phúc kết hợp với bốn phần trí tuệ về Đạo.

Qua Saccādiṭṭhāna, Ngài ạt ược hạnh phúc của sơ thiền. Qua Cagādiṭṭhāna, Ngài ạt ược hạnh phúc của nhị thiền. Qua Upasamādiṭṭhāna, Ngài ạt ược hạnh phúc của tam thiền và qua Paññādiṭṭhāna, Ngài ạt ược hạnh phúc của tứ thiền.

Các pháp Pāramī rút gọn còn hai pháp 

Cũng như tất cả các pháp pāramī ều ược bao gồm trong bốn Trụ xứ, chúng cũng ược xem là hai pháp: Từ bi (Karunā) và Trí tuệ (Paññā). Thực tế thì chỉ phẩm hạnh như dāna, v.v... ược thành lập dựa trên nền tảng là karunāpaññā, là hai pháp cần thiết cho sự giác ngộ Chánh ẳng giác, dẫn ến kết quả là Nhất thiết trí.

Những iểm ã ược trình bày trong chương này là:

Sự rút gọn 30 pháp Pāramī thành 10. Sự rút gọn 10 Pāramī thành 6: Dāna, Sīla, Khantī, Viriya, JhanāPaññā. Rồi sự rút gọn 6 Pāramī thành 4 Trụ xứ - Adhiṭṭhāna và cuối cùng tất cả Pāramī ược cô ọng trong hai pháp: KarunāPaññā.

13. Những yếu tố nào làm thành tựu các pháp Pāramī ? 

Với câu hỏi: “Những yếu tố nào làm thành tựu các pháp pāramī?” Câu trả lời: Những yếu tố nấy là:

  1. Tu tập bốn loại bhāvanā,
  2. Quán tưởng những pháp ối nghịch với Pāramī và loại trừ chúng,
  3. Hiến dâng thân mạng của mình ến Đức Phật.

Tóm lại, phương tiện làm thành tựu các pháp pāramī là (a) diệt tắt tự ái và (b) phát triển tình thương ối với tất cả chúng sanh.

Giải rõ:

  1. Bốn phương tiện tốt ể làm thành tựu các pháp pāramī là sự tu tập và tích lũy tất cả những pháp cần thiết như Ba-la-mật (paramī), xả ly (cāga), hạnh (cariya), không bỏ sót một pháp nào với mục ích duy nhất là chứng ạt Nhất thiết trí (Sabbasambhāra-bhāvanā); với sự tôn kính hết mức (Sakkacca-bhāvanā); kiếp này qua kiếp khác không có sự gián oạn (Nirantara-bhāvanā); trải qua thời gian dài mà không có sự giải ãi trước khi thành Phật (Cirakālabhāvanā).
  2. Vị Bồ tát trước hết phải xả ly tất cả sở hữu riêng tư của mình, ngay trước khi những người khất thực ến ứng trước cửa nhà, với quyết ịnh: “Ta sẽ bố thí mạng sống cũng như tài sản của cải mà ta sở hữu nếu có người ến xin chúng. Sau khi ã cho i, Ta sẽ dùng cái gì còn lại.”

Bằng cách này, Ngài ã quyết ịnh trước ể xả ly mọi tài sản của cải mà Ngài sở hữu. Nhưng có bốn yếu tố gây chướng ngại cho sự bố thí của Ngài (dāna vinibandha - bố thí phược):

      1. Không quen thực hành bố thí trong quá khứ.
      2. Không có ầy ủ vật sở hữu.
      3. Tài sản sở hữu quá quí giá không thể cho i ược. (d) Lo sợ tiền bạc của cải bị cạn kiệt.
    1. Khi Bồ tát có những thứ ể cho và những người hành khất ã ứng trước cửa nhà nhưng tâm của Bồ tát không có khuynh hướng muốn cho, Ngài nhận ra rằng: “Quả thật ta ã không có thói quen bố thí trong quá khứ cho nên giờ ây ước muốn bố thí không sanh khởi trong những hoàn cảnh như vậy.” Rồi Ngài quán xét:

“Dầu ước muốn bố thí không sanh khởi trong ta, ta cũng bố thí ể tạo ra thói quen và vui thích với nó. Từ nay trở i ta sẽ bố thí rộng rãi. Không phải rằng ta ã phát nguyện bố thí rồi ó sao?”

Sau khi quán xét như vậy, Ngài bố thí rất rộng rãi, ầy hoan hỷ. Bằng những sự bố thí như vậy, vị Bồ tát oạn trừ chướng ngại thứ nhất - “Không có thói quen thực hành bố thí trong quá khứ.”

    1. Khi không có ủ tiền bạc, của cải, vị Bồ tát suy xét như vầy: “Vì trong kiếp trước ta không thực hành bố thí nên kiếp này ta bị thiếu thốn của cải. Do ó, ta nên bố thí bất cứ cái gì mà ta có, dầu ít ỏi hoặc thấp hèn, cho dù làm như vậy sẽ làm cho ời sống của ta khó khăn hơn. Bằng sự bố thí như vậy, chắc chắn tương lai ta sẽ ạt ến ỉnh cao của Bố thí Ba-la-mật.”

Sau khi ã quán xét như vậy, Ngài bố thí một cách rộng rãi, ầy hoan hỷ bất cứ thứ gì mà Ngài có. Qua những sự bố thí như vậy, Bồ tát oạn trừ chướng ngại thứ hai - “thiếu thốn tiền bạc và của cải.”

    1. Khi không có khuynh hướng muốn bố thí vì phẩm chất của các vật sở hữu quí giá, Bồ tát suy xét như vầy: “Này thiện nhân, há không phải rằng ngươi ã phát nguyện cầu sự Giác ngộ tối thượng, cao quí nhất và tuyệt hảo nhất ó sao? Muốn ạt ược sự giác ngộ tối thượng, cao quí nhất và tuyệt hảo nhất, iều thích hợp duy nhất là ngươi phải bố thí những thứ quý báu nhất và tuyệt hảo nhất.”

Sau khi quán xét như vậy, Bồ tát bố thí những vật thí quý báu nhất và tuyệt hảo nhất. Khi thực hành như thế, Bồ tát ã loại bỏ chướng ngại thứ ba - “tài sản sở hữu quý giá không thể cho i ược.” 

    1. Khi Bồ tát nhận thấy tiền bạc, của cải sẽ bị cạn kiệt nếu bố thí chúng i, Ngài suy xét như vầy: “Bị tiêu họai và mất mát là bản chất tài sản và các vật sở hữu. Chính vì ta ã không làm các việc phước về bố thí trong quá khứ nên bây giờ ta mới chịu thiếu thốn về các vật thí, mà chính quả phước của bố thí sẽ cho tài sản và các vật sở hữu không bao giờ cạn kiệt. Ta sẽ bố thí bất cứ vật gì ta có ược dù ít hoặc nhiều. Bằng những sự bố thí như vậy, trong tương lai ta sẽ ạt ến ỉnh cao về Bố thí Ba-la-mật.”

Sau khi ã suy xét như vậy, Bồ tát cho i bất cứ thứ gì Ngài có ược một cách rộng rãi và ầy hoan hỷ. Qua những sự bố thí như vậy, Bồ tát oạn trừ chướng ngại thứ tư - “lo sợ cạn kiệt các vật sở hữu của mình.”

Đoạn trừ các chướng ngại của sự bố thí bằng cách quán xét về chúng với bất cứ phương cách nào thích hợp sẽ hình thành phương tiện chánh áng ể thành tựu Bố thí Ba-la-mật. Phương pháp này cũng áp dụng cho các Ba-la-mật khác như trì giới, v.v....

  1. Hơn nữa, trước hết Bồ tát tự dâng hiến thân mạng của mình ến Đức Phật với câu nói: “Con xin dâng hiến thân mạng này của con ến Đức Phật (imāhaṃ attabhāvaṃ. Buddhānaṃ niyyādemi)”. Sự hiến dâng thân mạng này ược thực hiện ến Đức Phật là phương pháp tốt ể thực hành viên mãn Ba-la-mật. 

Thực ra, Bồ tát ã hiến dâng thân mạng của Ngài ến Đức Phật rồi, Ngài quán xét: “Ta ã dâng hiến chính thân mạng này của ta ến Đức Phật rồi nên có iều gì xảy ra cũng vậy thôi.” Khi ối diện với các nghịch cảnh có thể làm nguy hiểm ến thân và mạng sống của Ngài hoặc khó chịu ựng, hoặc khi Ngài ang bị thương tích au ớn do chúng sanh gây ra, có thể tước mất mạng sống của Ngài trong khi thực hành các pháp Ba-la-mật trải qua nhiều kiếp. Sau khi ã quán xét như vậy, Ngài giữ tâm bất ộng tuyệt ối, không bị lay chuyển khi ối diện với các nghịch cảnh có thể làm hại ến cả mạng sống của Ngài và kiên quyết tích lũy các việc phước về Ba-la-mật.

Bằng cách này, sự hiến dâng thân mạng của chính mình ến Đức Phật trước tiên là phương tiện tốt ể thực hành viên mãn tất cả các pháp Ba-la-mật.

Nói tóm lại, các phương tiện ể làm thành tựu các pháp Ba-la-mật là: (a) diệt tự ái và (b) phát triển từ bi ối với tất cả chúng sanh.

Giải rõ:

Nhờ hiểu biết ầy ủ bản chất chân thật của các Pháp, vị Bồ tát - người có chí nguyện thành ạt Nhất thiết trí giữ tâm không bị ô nhiễm bởi ái dục, ngã mạn và tà kiến. Nhờ thấy thân của mình chỉ là khối uẩn của hiện tượng tự nhiên nên sự tự tôn, tự ại càng ngày càng giảm thiểu và diệt tắt.

Do thường xuyên tu tập pháp Đại bi, Ngài xem tất cả chúng sanh như con ruột của chính mình. Tâm từ ái và bi mẫn của Ngài ối với họ càng ngày càng sâu rộng.

Bồ tát - người ã diệt trừ tánh bỏn xẻn, v.v... là những pháp ối nghịch với các pháp Ba-la-mật. Sau khi tạm thời thoát khỏi tham, sân, si liên quan ến chính mình và những kẻ khác, ã cứu ộ chúng sanh bằng Bốn nhiếp pháp (saṅgaha vatthu): bố thí (dāna), ái ngữ (piyavācā), lợi hành (atthacariya) và ồng sự (samānattata). Bốn pháp này luôn luôn i chung với bốn Trụ xứ. Rồi Ngài giúp ỡ chúng sanh bằng ba thừa hành (sīla, samādhi, paññā) là những cỗ xe dẫn họ i ến ba chỗ Giác ngộ, ối với những người chưa vào ba cỗ xe ấy thì ưa họ vào, còn những người ã vào rồi thì giúp họ ạt ến chỗ thành thục.

Thực ra, từ bi và trí tuệ của Bồ tát ược tô iểm bởi hành ộng bố thí, một trong bốn Nhiếp pháp (từ bi và trí tuệ không bao giờ tự hiện khởi mà không có bố thí, cả hai cùng hiện khởi khi các hành ộng bố thí xảy ra). Bố thí ược tô iểm bởi ái ngữ, vì Bồ tát không bao giờ nói lời trách móc hoặc lớn tiếng trong khi bố thí cho những người ến xin vật thí và cho người hầu kẻ hạ, chỉ nói những lời chan chứa từ ái mà thôi. Lời nói từ ái ược tô iểm bởi lợi hành, vì Bồ tát nói lời từ ái không chỉ em lại sự hài lòng mà nói với lòng chân thành, thiện ý là em lại lợi ích cho kẻ khác (vì sự thực hành các pháp cần thiết cho sự giác ngộ, là những pháp như pāramī, cāga, cariya, có nghĩa là sự thực hành em lại lợi ích và hạnh phúc cho chúng sanh. Do ó, sự thực hành ấy ược gọi là lợi hành, một trong bốn nhiếp pháp). Lợi hành ược tô iểm bởi ồng sự, vì trong sự thực hành các pháp cần thiết cho sự giác ngộ, Bồ tát ối xử với tất cả chúng sanh với tâm bình ẳng, xem họ như người ngang hàng với chính Ngài bất chấp mọi hoàn cảnh vui vẻ hay khổ au.

Khi Ngài thành Phật, phận sự hóa ộ và thuyết pháp của Ngài ược thành tựu bằng cách sử dụng bốn nhiếp pháp ể em lại lợi ích cho chúng sanh. Bốn nhiếp pháp này ược tu tập viên thành nhờ sự thành tựu viên mãn bốn Trụ xứ.

Giải rõ:

Đối với Đức Phật, hành ộng bố thí ược viên thành nhờ Cāgādhiṭṭhāna, ái ngữ ược viên thành nhờ Saccadhiṭṭhāna, lợi hành ược viên thành nhờ Paññādhiṭṭhāna, và ồng sự ược viên thành nhờ Upasamādhiṭṭhāna

Liên quan ến bốn adhiṭṭhāna và bốn Nhiếp pháp, Chú giải bộ Hạnh Tạng (Cariyā Piṭaka) có nêu ra bốn câu kệ tán dương các ân Đức Phật.

  1. Sacco cāgī upasanto       paññavā anukampako       sambhatasabbasambhāro       kaṃ nāmatthaṃ na sādhaye.

Đức Phật, Bậc ã ạt ến ỉnh cao của sự thành tựu bốn loại Đế trụ xứ - Saccadhiṭṭhāna, Bậc ã thành tựu hoàn toàn các Xả oạn trụ xứ - Saccadhiṭṭhāna, Bậc ã dập tắt các ngọn lửa phiền não. Bậc thành ạt Nhất thiết trí và Bậc chăm sóc chúng sanh bằng tâm ại bi, có ầy ủ tất cả các pháp cần thiết về pāramī, có iều gì mà Ngài không thể ạt ược?

  1. Mahākāruniko satthā      hitesī ca upekkhako      nirapekkha ca sabbattha      aho acchariyi jino.

Đức Phật, là thầy của chư thiên và nhân loại, bậc có tâm ại bi, tầm cầu lợi ích và hạnh phúc cho chúng sanh cho ến khi họ giác ngộ Niết bàn. Ngài giữ tâm bình thản trước các pháp thăng trầm của cuộc sống. Thoát khỏi ái dục ối với mọi pháp trong thân và ngoài thân. Kỳ diệu thay Đức Phật! Bậc Thắng phục ngũ ma (marā).

[Ngũ ma: 5 loại chướng ngại - (1) Thiên ma  (devaputta māra), chư thiên chiến ấu với Đức Phật về chỗ ngồi trí tuệ, vây quanh Ngài là những oàn binh ma. (2) Phiền não ma (kilesa māra), các loại phiền não trong tâm. (3) Hành tác ma (abhisaṅkhāra māra) các hành vi tạo nghiệp dẫn ến sự tái sanh. (4) Ấm ma (khandha māra), các danh sắc uẩn xuất hiện trong tất cả các kiếp sống trước khi chứng ắc Niết bàn.

(5) Tử ma (maccu māra)].

  1. Virato sabbadhammesu      sattesu ca upekkhako      sadā sattahite yutto      aho acchariyo jino.

Tuy ã ly ái tất cả các pháp và tâm ã bình thản trước tất cả chúng sanh, Ngài vẫn chuyên tâm ngày êm em lại hạnh phúc cho chúng sanh. Ôi, kỳ diệu thay Đức Phật, Bậc Thắng phục ngũ ma!

  1. Sabbadā sabbasattānaṃ     hitāya ca sukhāya ca     uyyutto akitāsū ca     aho acchariya jino.

Luôn em lại lợi ích và hạnh phúc cho chúng sanh - nhân loại, chư thiên, Phạm thiên - và chăm lo năm phận sự của vị Phật ngày êm không ngừng nghỉ. Thế mà Ngài vẫn không có dấu hiệu tỏ ra mệt mỏi.

Ôi, kỳ diệu thay Đức Phật, Bậc Thắng phục ngũ ma!

(Chấm dứt chương nói về những yếu tố tạo nên sự thành tựu các pháp Ba la mật)

14. Thời gian cần thiết ể thành tựu các pháp Pāramī là bao lâu?  

 Với câu hỏi: “Thời gian cần thiết ể thành tựu các pháp pāramī là bao lâu?” Câu trả lời là:

Thời gian tối thiểu cần thiết cho sự thành tựu viên mãn các pháp Ba-la-mật là bốn A-tăng-kỳ (asankheyya) và một trăm ngàn ại kiếp. Thời gian trung bình là tám A-tăng-kỳ và một trăm ngàn ại kiếp, và thời gian lâu nhất là mười sáu A-tăng-kỳ và một trăm ngàn ại kiếp sau khi ược thọ ký thành Phật (Chỉ sau khi thành tựu viên mãn các pháp pāramī trong những chuỗi dài thời gian như vậy, người ta mới có thể thành Phật).

Ba chuỗi thời gian khác nhau này liên quan ến ba loại Đương lai Phật, ó là Paññādhika Đương lai Phật (Trí tuệ Đương lai Phật) ,

Saddhādhika Đương lai Phật (Đức tin Đương lai Phật) và Viriyādhika Đương lai Phật (Tinh tấn Đương lai Phật) (vị Paññādhika Đương lai Phật phải trải qua 4 A-tăng-kỳ và một trăm ngàn ại kiếp; vị Saddhādhika Đương lai Phật phải trải qua 8 A-tăng-kỳ và một trăm ngàn ại kiếp, và vị Viriyādhika Đương lai Phật phải trải qua 16 Atăng-kỳ và một trăm ngàn ại kiếp ể thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật.

Với câu hỏi: “Tất cả ba loại Bồ tát này ều là những vị Đương lai Phật, tại sao lại có ba chuỗi thời gian khác nhau ể thực hành viên mãn các pháp pāramī?” Câu trả lời là:

Vị Paññādhika Đương lai Phật yếu về ức tin nhưng mạnh về trí tuệ. Vị Saddhadhika Đương lai Phật mạnh về ức tin nhưng trung bình về trí tuệ. Vị Viriyādhika Đương lai Phật yếu về trí tuệ nhưng mạnh về tinh tấn. Chỉ qua sức mạnh về trí tuệ, người ta mới chứng ạt Nhất thiết trí. Trí tuệ mạnh thì thời gian chứng ạt Nhất thiết trí sẽ nhanh. Trí tuệ yếu thì thời gian chứng ạt Nhất thiết trí sẽ chậm. Sự khác nhau về mức ộ sức mạnh của trí tuệ giải thích lý do về những chuỗi thời gian khác nhau ể thực hành viên mãn các pháp pāramī. (câu trả lời này ược trích ra từ Chú giải).

Các vị thầy Apare cho rằng sự khác biệt giữa ba thời gian căn cứ vào ba mức ộ của sự tinh tấn : mạnh, trung bình và yếu.

Lại nữa, các vị A-xà-lê khác thì nói rằng chính do sự khác biệt về các mức ộ mạnh, yếu và trung bình của sự thành thục các pháp pāramī dẫn ến giải thoát.

Trong ba quan iểm này, quan iểm của nhà Chú giải tỏ ra thích hợp nhất khi chúng ta xét sự phân chia các vị Bồ tát thành ba loại như sau:

Ba dạng Bồ tát 

Giải rõ:

Ngay vào lúc ược thọ ký như trong trường hợp của ạo sĩ Sumedha, các vị Bồ tát có ba dạng: (1) Lược khai trí Bồ tát (Ugghaṭitaññā Bodhisatta), (2) Quảng viễn trí Bồ tát (Vipañcitaññā Bodhisatta) và (3) Sở dẫn ạo Bồ tát (Neyya Bodhisatta).

Ugghaṭitaññā Bodhisatta - Lược khai trí Bồ tát là những bậc nếu muốn chứng ắc pháp giác ngộ của vị Thinh văn (Sāvaka Bodhi) trong chính kiếp sống mà họ ược thọ ký, sẽ có phước hỗ trợ ặc biệt ể chứng ắc ạo quả A-la-hán cùng với sáu Thắng trí (Abhiññā) và bốn Tuệ phân tích (Paṭisambhidā ñāṇa), ngay trước khi kết thúc câu kệ thứ ba của bài kệ gồm bốn câu do Đức Phật thuyết. Lược khai trí Bồ tát này cũng ược gọi là Paññādhika Bồ tát. Dạng Bồ tát này có trí tuệ mạnh nhất.

Vipañcitaññā Bodhisatta - Quãng viễn trí Bồ tát là những vị mà nếu muốn chứng ắc sự giác ngộ của vị Thinh văn trong chính kiếp sống mà họ ược thọ ký, thì sẽ có phước hỗ trợ ặc biệt ể chứng ắc ạo quả A-la-hán cùng với Lục thông và bốn loại Tuệ phân tích, trước khi kết thúc câu kệ thứ tư của bài kệ gồm bốn câu do Đức Phật thuyết. Dạng Bồ tát này cũng ược gọi là Saddhādhika - có trí tuệ trung bình.

Neyya Bodhisatta - Sở dẫn ạo Bồ tát là những vị mà nếu muốn chứng ạt sự giác ngộ của vị Thinh văn trong chính kiếp sống mà họ ược thọ ký, sẽ có phước hỗ trợ ặc biệt ể chứng ắc ạo quả A-lahán cùng với Lục thông và bốn loại Tuệ phân tích, vào lúc kết thúc cả bài kệ gồm bốn câu do Đức Phật thuyết. Dạng Bồ tát này cũng ược gọi là Viriyādhika Bồ tát - có trí tuệ yếu nhất.

Cả ba dạng Bồ tát ều ã phát nguyện thành Phật trong vô số ại kiếp, trước khi ược Đức Phật thọ ký. Tuy nhiên, sau khi ược thọ ký rồi, họ thực hành các pháp pāramī trải qua úng thời gian ã ược giải rõ ở trên và chứng ạt Nhất thiết trí.

Chứng ắc Phật quả sớm hơn là iều không thể ược 

Lúa ra hoa, ậu ra hạt và chín chỉ sau một thời gian nhất ịnh. Ngay cả khi có sự chăm sóc hết mức như tưới nước nhiều, v.v... cũng không thể cho quả sớm hơn thời gian tự nhiên ược. Tương tự vậy, tất cả các dạng Bồ tát không cách nào chứng ạt ạo quả Phật trước khi thực hành viên mãn các pháp pāramī trong thời gian nhất ịnh,  dù hằng ngày họ thể hiện sự tinh tấn nhiều hơn trong sự thực hành các pháp Ba-la-mật, sự xả ly và các hạnh, vì trí tuệ của các vị chưa ạt ến chỗ thành thục và sự tích lũy các nhân tố thành Phật chưa ược viên mãn.

Do ó, nên hiểu rằng các pháp pāramī ược thành tựu viên mãn úng với thời gian ã ược nêu trên.

15. Những lợi ích nào phát sanh từ các pháp Pāramī ? 

Với câu hỏi: “Những lợi ích nào phát sanh từ các pháp pāramī?” Câu trả lời tóm tắt là:

Những lợi ích phát sanh từ các pháp pāramī là không tái sanh vào A-tỳ-ịa ngục, v.v...

Giải thích chi tiết:

Những lợi ích phát sanh từ các pháp pāramī là: không tái sanh trong mười tám loại kiếp sống bất hạnh (abhabbaṭṭhāna) như A-tỳ-ịa ngục (Avīci), v.v... (sẽ ược bàn ến ở cuối tập phẩm này); khả năng thực hành các pháp lợi sanh; hai mươi iều kỳ diệu (như ã ược mô tả trong bài kinh Acchariya Abbhuta, của phẩm Suññata Vagga, Uparipaṇṇāsa, trong Majjhima Nikāya); sự thành tựu ước nguyện của vị Bồ tát; và tất cả những lợi ích khác như sự thành thạo trong nghệ thuật và các nghề thủ công, v.v... mà chúng ta thường thấy trong các bài kinh Bổn sanh (Jataka), các Phật sử (Buddhavaṁsa), v.v....

(Những lợi ích liên quan ến 15 cặp Pāramī ược nêu ra ở mục số 12. Bài “Các pháp pāramī ược rút gọn như thế nào?” cũng ược xem là những lợi ích phát sanh từ các pháp pāramī).

Hơn nữa, những iều sau ây cũng là những lợi ích do các pāramī em lại - Từ khi phát nguyện thành Phật, Bồ tát với lòng mong ước hạnh phúc cho chúng sanh ã trở thành giống như người cha của họ. Có những ức tánh siêu việt, Ngài xứng áng thọ lãnh những vật cúng dường, áng ược tôn kính. Ngài giống như mảnh ruộng phì nhiêu ể gieo vào những hạt giống phước. Ngài ược chư thiên và nhân loại thương mến. Tâm của Ngài chan chứa từ bi nên Ngài không thể bị hại bởi các loài thú dữ như cọp, báo, sư tử, v.v.... Là người có phước phi thường ở bất cứ nơi nào Ngài sanh ra, Ngài vượt trội những kẻ khác về sắc ẹp, danh vọng, hạnh phúc, sức mạnh và quyền lực. Ngài thoát khỏi các chứng bịnh. Ngài có niềm tin rất thanh tịnh, sự tinh tấn, chánh niệm, ịnh và trí tuệ. Ngài có ít phiền não, kết quả Ngài trở thành người dễ chịu. Ngài nhẫn nại và vui thích trong các việc thiện. Ngài không tỏ thái ộ nóng giận hay thù hằn, cũng không gièm pha kẻ khác. Ngài không có tánh thù ịch, ố kỵ, xảo quyệt, ạo ức giả. Ngài không tự cao hay ngạo mạn. Ngài vắng lặng, thanh tịnh. Ngài luôn lưu tâm ến việc phước, nhẫn nại chịu ựng sự hành hạ của kẻ khác. Ngài không gây au khổ cho họ. Dù ở bất cứ nơi nào, thị trấn, làng mạc hay các vùng, nơi Ngài ở ều thoát khỏi mọi nguy hiểm, tai họa. Bất cứ nơi nào Ngài sanh vào (ví dụ như trong kiếp trước khi Ngài sanh làm hoàng tử Temi) dù ở trong các cõi khổ như ịa ngục Ussada (Đột khởi ịa ngục) không giống như những tội ồ khác, Ngài không tỏ thái ộ au ớn trước những cực hình khủng khiếp, mà phát triển kinh cảm trí mỗi lúc một mạnh hơn.

Hơn nữa, sự thành tựu về thọ mạng (āyu-sampadā), sự thành tựu về sắc thân (rūpa-sampadā), sự thành tựu về quyến thuộc (kulasampada), sự thành tựu về chủ quyền (issariya-sampadā), tánh khả nhận của lời nói (adeyya-vacanatā), tánh vĩ ại của oai lực (mahānubhāvatā) cũng là lợi ích của các pháp pāramī.

Sự thành tựu về āyu-sampadā - thọ mạng là sự trường thọ trong bất cứ kiếp sống nào Ngài sanh ra. Với sự thành tựu này, Bồ tát làm ược nhiều việc phước càng ngày càng to lớn hơn.

Sự thành tựu về rūpa-sampadā - sắc thân là sắc ẹp của thân. Với sự thành tựu này, Bồ tát khiến cho chúng sanh ngưỡng mộ và coi trọng vẻ ẹp của thân có niềm tin và sự kính trọng ối với Ngài.

Sự thành tựu về kula-sampada - quyến thuộc là sự tái sanh vào gia ình thuộc giai cấp cao. Với sự thành tựu này, ngay cả những người say mê, chấp thủ ịa vị cũng ến với Ngài. Do ó, Ngài có thể tế ộ họ, giúp họ tẩy trừ tánh ngã mạn của họ.

Sự thành tựu về issariya-sampadā - chủ quyền là tài sản to lớn, quyền lực to lớn và tùy tùng ông ảo. Do sự thành tựu này, Bồ tát có thể ban những lợi ích ến những người xứng áng  qua tứ nhiếp pháp của Ngài và  dẫn dắt những người cần ược iều phục vào con ường chân chánh.

 Adeyya-vacanatā - tánh khả nhận của lời nói là làm người có lời nói áng tin cậy. Với sự thành tựu này, Bồ tát ược mọi người tin cậy như tin vào sự công bằng của chiếc cân.

Mahānubhāvatā - tánh vĩ ại của oai lực là sự tỏa sáng của oai lực. Bằng sự thành tựu này, Ngài không bị ánh bại trong khi Ngài nhiếp phục người khác theo chánh pháp.

Chính những sự thành tựu này là nguyên nhân cho sự trưởng thành của vô số pháp cần thiết về phước và là phương tiện mà nhờ ó chúng sanh bước vào ba cỗ xe, và cũng nhờ ó mà những người ã bước vào ba cỗ xe ấy ạt ến chỗ thành thục.

16. Quả của các pháp Pāramī là gì?

Đối với câu hỏi: “Quả của các pháp pāramī là gì?” Câu trả lời tóm tắt là:

Quả của các pháp pāramī là vô số ân ức của Đức Phật dẫn ầu bởi A-la-hán ạo trí (Arahattamagga) và Nhất thiết trí là sự Giác ngộ tối thượng. Nghĩa là sự chứng ắc ạo quả Phật là quả của những pháp pāramī.

Giải rõ:

Đó là sự hoạch ắc về sắc thân (rūpa-kāya) ược tô iểm bởi nhiều ặc iểm như 32 hảo tướng của bậc ại trượng phu, tám mươi tướng phụ (sẽ ược nói rõ trong bài lịch sử của Đức Phật Gotama). Hào quang từ thân của Ngài tỏa rộng tám mươi hắc tay ngay cả trong bốn iều kiện tối tăm (4 iều kiện tối tăm là - nửa êm, tối ba mươi, trong khu rừng rậm và dưới bầu trời dày ặc mây en không có ánh sáng), sự hoạch ắc pháp thân (dhamma kāya) ược thành lập dựa vào sắc thân và rực rỡ với vô số ân ức như Mười lực (Dasabala ñāṇa); Tứ tín tuệ (Catu vesārajja ñāṇa); Lục bất cộng trí (Cha-asādhārana ñāṇa); và Thập bát bất cộng pháp (Āvenika dhamma). 

[Thập bát bất cộng pháp (Āvenika-dhamma):(i) Quá khứ vô chướng trí; (ii) Hiện tại vô chướng trí; (iii) Tương lai vô chướng trí; (iv) Trí tuệ dẫn ầu trong tất cả mọi hành vi của thân; (v) Trí tuệ ứng ầu trong tất cả mọi hành vi của lời nói; (vi) Trí tuệ ứng ầu trong tất cả mọi hành vi của ý; (vii) Không có sự thối giảm trong quyết ịnh; (viii) Không có sự thối giảm trong tinh tấn; (ix) Không có sự thối giảm trong ịnh; (x) Không có sự thối giảm trong trí tuệ; (xi) Không có sự thối giảm trong việc thuyết pháp; (xii) Không có sự thối giảm trong giải thoát; (xiii) Không say mê trong vui ùa; (xiv) Không tạo ra những lỗi lầm ngốc nghếch; (xv) Mọi việc ều có thể phán oán bằng trí tuệ; (xvi) Không có iều gì cần phải vội vã; (xvii) Không bao giờ chểnh mãng, dễ duôi; (xviii) Làm tất cả mọi việc phải suy xét úng ắn.]

 Hơn nữa, các nhà Chú giải ã trích dẫn câu kệ sau ây ể tóm tắt tất cả ân ức của một vị Phật:

Buddhopi buddhassa bhaṇeyya vaṇṇaṃ kappaṃ pice aññaṃ abhasamāno khiyetha kappo cira dīghaṃ antare vaṇṇo na khiyetha tathāgatassa.

“Những ân ức của một vị Phật rất nhiều ến nỗi ngay cả một vị Phật khác bỏ hết cả thời gian chẳng làm gì ngoài việc trú trong những ân ức của vị Phật ấy suốt cuộc ời, cũng không thể kể ra hết tất cả những ân ức ấy. Tất cả những ân ức như vậy của một vị Phật là Quả của các pháp pāramī.

Vào lúc này, ể khơi dậy niềm tịnh tín và kính ngưỡng ến vô lượng ân ức của Đức Phật, ể giúp người ọc tác phẩm này tăng trưởng phước báu dẫn ến trí tuệ, tôi sẽ kết luận tập phẩm này bằng cách nhắc lại ba bài kệ của ạo sĩ Suruci, tiền thân của ại ức Sāriputta, tán dương Đức Phật Anomadassī:

  1. Sakkā samudde udakaṃ.       pametum āḷhakena vā     na tveva tava sabbaññū     ñānaṃ sakkā pametave.

Bằng cách nào ó người ta có thể o ược lượng nước mênh mông của ại dương. Tuy nhiên, không một ai dù là người hay chư thiên mà có thể dò ược trí tuệ của Đấng Tối Tôn - Đức Phật Chánh biến tri,

  1. Dhāretuṃ pathaviṃ sakkā        thapetvā tulamandale        na tveva tava sabbaññū        ñāṇaṃ sakkā dharetave

Bằng cách nào ó, người ta có thể cân ược toàn bộ khối lượng của ại ịa này. Tuy nhiên, không ai dù là người hay chư thiên mà có thể dò ược trí tuệ sâu rộng của Đấng Tối Tôn - Đức Phật Chánh biến tri.

  1. Ākāso minitum sakkā        rajjuyā angulena vā        na tveva tava sabbaññū        ñāṇaṃ sakkā pametave.

Bằng bàn tay hay thước dây, người ta có thể tính ược khoảng rộng của hư không. Tuy nhiên, không ai dù là người hay chư thiên mà có thể dò ược trí tuệ sâu rộng của Đấng Tối Tôn - Đức Phật Chánh biến tri.

                               KẾT THÚC CHƯƠNG 7

TẠP PHẨM BÀN VỀ Ý NGHĨA VÀ CÁC VẤN ĐỀ KHÁC LIÊN  QUAN ĐẾN CÁC PHÁP PĀRAMĪ

]œ

 

[1] Tám ặc tánh của giọng nói: Theo bài kinh Mahāgovinda sutta của Đại Phẩm, Trường bộ kinh, tám ặc tánh của giọng nói mà Phạm thiên Sanankumāra có ược là: (1) giọng nói thanh tịnh, (2) rõ ràng, dễ hiểu; (3) êm tai, (4) dịu dàng, (5) tròn ầy, (6) không bị phân tán, lộn xộn, (7) vang dội, sâu lắng, và (8) vừa ủ nghe; giống như vị Phạm thiên, chư vị Bồ tát cũng có giọng nói mang tám ặc tánh này.

 

.

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications