Layout Options

Header Options

  • Choose Color Scheme

Sidebar Options

  • Choose Color Scheme

Main Content Options

  • Page Section Tabs
  • Light Color Schemes
ĐPS T2A.006 CHƯƠNG 6 BỒ TÁT THỰC HÀNH PHÁP KHỔ HẠNH
Sau khi rời khỏi giáo chủ Udaka, Bồ tát i về vùng Magadha ể tầm cầu Niết bàn và cuối cùng ến thị trấn Senā. Gần Senā là khu rừng Uruvelā. Địa thế tự nhiên của khu rừng ủ ể làm hài lòng những bậc cao nhân và bậc giới ức. Tại chính khu rừng khả ái này, con sông Nerañjarā (Ni-liên-thiền) là khu vực rất hấp dẫn, không có bùn dơ, hai bên bờ cát trắng lấp lánh như bạc, nước sông trong vắt chứa ầy cá rùa, dòng sông miên man chảy không ngừng. Có những ngôi làng lân cận ể những ẩn sĩ có thể dễ dàng kiếm vật thực. Khi trông thấy tất cả những nét ặc thù này, Bồ tát lưu ý ến chúng một cách kỹ lưỡng và khởi lên thiện ý như vầy: “ Quả thực là nơi lý tưởng dành cho những thiện nam tử tầm cầu Niết bàn ến ể thực hành thiền tịnh.” Do ó, Ngài dựng lên một thảo am nhỏ bằng củi khô và lá có sẵn, rồi ngụ trong khu rừng Uruvelā ấy ể hành thiền.
Tìm kiếm nhanh

student dp

ID:5932

Các tên gọi khác

Sau khi rời khỏi giáo chủ Udaka, Bồ tát i về vùng Magadha ể tầm cầu Niết bàn và cuối cùng ến thị trấn Senā. Gần Senā là khu rừng Uruvelā. Địa thế tự nhiên của khu rừng ủ ể làm hài lòng những bậc cao nhân và bậc giới ức. Tại chính khu rừng khả ái này, con sông Nerañjarā (Ni-liên-thiền) là khu vực rất hấp dẫn, không có bùn dơ, hai bên bờ cát trắng lấp lánh như bạc, nước sông trong vắt chứa ầy cá rùa, dòng sông miên man chảy không ngừng. Có những ngôi làng lân cận ể những ẩn sĩ có thể dễ dàng kiếm vật thực. Khi trông thấy tất cả những nét ặc thù này, Bồ tát lưu ý ến chúng một cách kỹ lưỡng và khởi lên thiện ý như vầy: “ Quả thực là nơi lý tưởng dành cho những thiện nam tử tầm cầu Niết bàn ến ể thực hành thiền tịnh.” Do ó, Ngài dựng lên một thảo am nhỏ bằng củi khô và lá có sẵn, rồi ngụ trong khu rừng Uruvelā ấy ể hành thiền.

General Information

Danh sách : Liên quan
:
ĐPS T2A.006 CHƯƠNG 6 BỒ TÁT THỰC HÀNH PHÁP KHỔ HẠNH

                                        CHƯƠNG 6

BỒ TÁT THỰC HÀNH PHÁP KHỔ HẠNH

Sáu năm Bồ tát thực hành pháp khổ hạnh ở Uruvela 

Sau khi rời khỏi giáo chủ Udaka, Bồ tát i về vùng Magadha ể tầm cầu Niết bàn và cuối cùng ến thị trấn Senā. Gần Senā là khu rừng Uruvelā. Địa thế tự nhiên của khu rừng ủ ể làm hài lòng những bậc cao nhân và bậc giới ức. Tại chính khu rừng khả ái này, con sông Nerañjarā (Ni-liên-thiền) là khu vực rất hấp dẫn, không có bùn dơ, hai bên bờ cát trắng lấp lánh như bạc, nước sông trong vắt chứa ầy cá rùa, dòng sông miên man chảy không ngừng. Có những ngôi làng lân cận ể những ẩn sĩ có thể dễ dàng kiếm vật thực. Khi trông thấy tất cả những nét ặc thù này, Bồ tát lưu ý ến chúng một cách kỹ lưỡng và khởi lên thiện ý như vầy: “ Quả thực là nơi lý tưởng dành cho những thiện nam tử tầm cầu Niết bàn ến ể thực hành thiền tịnh.” Do ó, Ngài dựng lên một thảo am nhỏ bằng củi khô và lá có sẵn, rồi ngụ trong khu rừng Uruvelā ấy ể hành thiền.

Sự hiện khởi ba ví dụ so sánh trong tâm của Bồ tát  Ba ví dụ so sánh sau ây khởi sanh trong tâm của Bồ tát

  1. Để tạo ra lửa, một người dù siêng năng ến mấy chăng nữa, nhưng nếu dùng cây mồi lửa mà cọ vào miếng gỗ ướt ược nhúng trong nước, thì anh ta cũng không thể tạo ra lửa, chỉ làm phí sức mà thôi. Dường thế ấy, trong thế gian này, những bậc ược gọi là Sa-môn và Bà-la-môn mà nội tâm bị nhầy nhụa do các phiền não dục, chưa ược làm khô héo và chưa xa lìa vật dục thì sẽ không giác ngộ ược Đạo Quả, chỉ bị au khổ dầu họ cố gắng tự thanh lọc các phiền não ấy ến mấy chăng nữa. Đây là ví dụ thứ nhất hiện khởi trong tâm của Bồ tát.

(Trong ví dụ này, những người có phiền não dục nhầy nhụa chưa ược làm khô sạch thì giống như thanh củi ướt. Hành ộng trầm mình trong ngũ dục giống như hành ộng nhúng miếng gỗ sung vào trong nước. Tính chất không thể tạo ra ngọn lửa của Đạo tuệ dù siêng năng ến mấy, nếu chưa từ bỏ ngũ dục giống như tính chất không thể tạo ra ngọn lửa khi cọ cây kích lửa với miếng gỗ ướt. Ví dụ này ám chỉ ời sống tu hành của những ạo sĩ ang sống ời sống gia ình với vợ con - saputtabhariyā-pabbajjā).

  1. Để tạo ra lửa, một người tuy siêng năng, cọ cây kích lửa vào một miếng gỗ ướt ược ể trên ất cách xa nước, người này cũng không thể tạo ra lửa vì miếng gỗ còn ướt; thay vào ó, anh ta chỉ trở nên khốn khổ. Dường thế ấy, trong thế gian này, những người ược gọi là Sa-môn và Bà-la-môn mà nội tâm còn những phiền não dục chưa ược oạn trừ sẽ không thể giác ngộ ược Đạo Quả, chỉ i hoài trong au khổ dù thân tâm của họ ã xa rời nước ngũ dục và có sự siêng năng tu tập. Đây là ví dụ thứ hai hiện khởi trong tâm của Bồ tát.

(Trong ví dụ này, những người mà nội tâm chưa khô héo các phiền não dục thì cũng giống như miếng gỗ lớn ẩm ướt. Khả năng không thể tạo ra ngọn lửa của Đạo tuệ dù họ tinh tấn hành ạo ến mấy, thân tâm ã xa rời ngũ dục, cũng giống như việc không thể tạo ra ngọn lửa. Thay vào ó chỉ tạo ra au khổ, vì tánh chất ẩm ướt của gỗ, dầu nó ược dụng công cọ xát liên tục ến mấy. Ví dụ này ám chỉ sự tu hành của những vị Bà-la-môn ã từ bỏ vợ con, siêng năng hành ạo trong pháp môn của ngoại ạo (pāsaṇḍa). Sự tu tập này ược gọi là Brāhmaṇadhammikā-pabbajjā).

  1. Để tạo ra ngọn lửa, một người lấy cây kích lửa cọ vào miếng gỗ khô ược ể trên ất khô cách xa nước và anh ta tạo ra ngọn lửa một cách dễ dàng vì miếng gỗ khô lại ược ặt trên ất cách xa nước. Dường thế ấy, trong thế gian này, những người ược gọi là Samôn và Bà-la-môn mà nội tâm ã khô héo các phiền não dục và thân tâm ã xa rời các cảnh dục, có thể giác ngộ Đạo Quả khi họ thực hành theo Sa-môn pháp chân chánh với sự dụng công nhiều hoặc ít. Đây là ví dụ thứ ba hiện khởi trong tâm của Bồ tát. Ví dụ này ám chỉ con ường tu chứng của Bồ tát.

Nhóm năm vị ạo sĩ ến hầu hạ Bồ tát 

Nhóm năm vị ạo sĩ ã xuất gia làm Sa-môn ngay sau khi Bồ tát ản sanh như ã trình bày ở trước, họ ang dò hỏi xem Bồ tát ã từ bỏ thế gian và trở thành Sa-môn hay chưa. Khi hay tin Bồ tát ã xuất gia, họ bắt ầu i ến các làng mạc, phố chợ, v.v… từng nơi một, ể tìm kiếm Bồ tát và gặp Ngài ở khu rừng Uruvelā. Họ vốn ã hy vọng mạnh mẽ rằng: “ Không bao lâu nữa, Bồ tát sẽ thành Phật! Không bao lâu nữa Bồ tát sẽ thành Phật!”, họ hầu hạ Ngài khi Ngài ang thực hành khổ hạnh pháp (dukkaracariya) trải qua sáu năm ròng rã. Họ luôn theo Bồ tát ể thực hiện các phận sự của họ như quét dọn phòng ốc, em ến Ngài nước nóng và nước lạnh, v.v...

Sự thực hành khổ hạnh pháp (dukkaracariya) của Bồ tát  

Pháp tinh tấn ược thành lập bởi bốn iều thệ nguyện, ó là (1) “ Dù chỉ còn da!”, (2) “ Dù chỉ còn gân!”, (3) “ Dù chỉ còn xương!” và (4) “ Dù thịt và máu bị khô héo.” Chúng ược gọi là ‘dõng mãnh tinh tấn - padhāna-viriya’. Những sự thực hành ược nêu ra ở ây ược gọi là việc làm tinh tấn (padhāna) vì chúng ược thực hiện với sự dõng mãnh tinh tấn. Chúng cũng ược gọi là hạnh tinh tấn – dukkaracariya (dukkara: khó làm, cariya: hạnh) vì chúng rất khó thực hành ối với những người bình thường.

  1. Sau khi ã i ến thị trấn Senā ể khất thực, Bồ tát trải qua nhiều ngày thực hành pháp thiền bác ái (mettā-bhāvanā). Rồi ý nghĩ sau ây chợt khởi lên trong tâm của ngài: “ Lợi ích nào sẽ phát sanh khi sống nhờ vào những vật thực thấp hèn và thô thiển này? Qua việc ăn thứ vật thực như vậy ến no bụng và tu tập pháp bác ái, ta sẽ không chứng ạt Nhất thiết trí, là mục ích của ta.” Và vì thế, Ngài từ bỏ việc sống nhờ vào vật thực khất thực, chỉ ăn những trái cây lớn nhỏ, những trái rụng xuống trong khu rừng Uruvelā. Ngay cả bằng cách này vẫn không ạt ược Nhất thiết trí, Bồ tát tự nghĩ: “ Vật thực này gồm những trái cây lớn nhỏ vẫn còn thô. Còn i tìm kiếm trái cây thì vẫn còn bị ràng buộc (palibodha).” Do ó, Ngài chỉ sống bằng trái cây rụng xuống quanh gốc cây nơi Ngài trú ngụ.
  2. Rồi Bồ tát suy xét như vầy: “ Thật tốt thay nếu ta, bằng sự nghiến răng và tặc lưỡi áp chế tâm bất thiện kết hợp với những ý nghĩ ác như dục tầm, v.v… với tâm thiện kết hợp với những tư tưởng chân chánh và hùng mạnh. Thật tốt thay nếu ta oạn tận nó. Thật tốt thay nếu ta oạn diệt nó bằng ngọn lửa tinh tấn.” Bởi vậy, bằng sự nghiến răng và tặc lưỡi, Ngài áp chế tâm bất thiện bằng tâm thiện. Ngài không ể nó sanh khởi mà oạn diệt nó. Ngài loại trừ nó ra khỏi người bằng ngọn lửa của sự tinh tấn. Vì vậy, mồ hôi chảy ra và nhỏ giọt xuống từ hai nách của ngài. Ví dụ: giống như mồ hôi nhỏ giọt từ hai nách của một người yếu ớt khi có một người mạnh khỏe kẹp ầu hoặc vai của anh ta và è anh ta xuống. Vào lúc ấy, sự tinh tấn của Bồ tát rất mạnh mẽ. Nó chẳng bị vơi giảm chút nào. Chánh niệm của Ngài cực kỳ vững chắc và ưu trội. Ngài chẳng bao giờ ánh mất sự giác tỉnh. Nhưng sự tinh tấn ầy au ớn của Ngài mãi gia tăng, tựa như toàn thân Ngài bị nóng cháy, chỉ có gia tăng mà không vơi giảm. Dầu ở trong trạng thái au ớn như vậy, nhưng ý chí quyết tâm phấn ấu của Ngài vẫn không thối giảm.
  3. Rồi ý nghĩ sau ây khởi lên trong tâm của Bồ tát: “ Thật tốt thay nếu ta tu tập An chỉ ịnh bằng cách chế ngự việc thở vô và thở ra.” Thế nên, với tinh tấn không giảm sút, Ngài chế ngự việc thở vô và

thở ra ở miệng và mũi khiến không khí không thể i vào hoặc i ra. Khi ấy, vì không có cơ hội, không khí tích tụ và thoát ra qua lỗ tai, lỗ miệng và lỗ mũi. Âm thanh ược tạo ra do gió thoát ra như vậy rất mạnh giống như âm thanh từ hai ống bể của thợ rèn. Vào lúc ấy sự tinh tấn của Bồ tát rất mạnh mẽ, nó chẳng bị vơi giảm chút nào. Chánh niệm của Ngài cực kỳ vững chắc và ưu trội. Chưa bao giờ Ngài ánh mất giác tỉnh. Khi sự tinh tấn ầy au ớn ược lập i lập lại nhiều lần; toàn thân của Ngài bị nóng cháy, chỉ có gia tăng mà không vơi giảm. Dầu ở trong trạng thái au ớn như vậy, nhưng ý chí quyết tâm phấn ấu của Ngài vẫn không vơi giảm.

  1. Rồi ý nghĩ sau ây khởi lên trong tâm của Bồ tát: “ Thật tốt thay nếu ta lập lại pháp An chỉ ịnh nầy.” Như thế, với sự tinh tấn không giảm sút, Ngài chế ngự hơi thở vô ra qua ường miệng, mũi và tai. Khi ấy, vì không có cơ hội ể thoát ra qua ường miệng mũi và tai, hơi thở bên trong bắn lên ầu và thấu vào óc. Ví như một người mạnh khỏe bị cái khoan bén nhọn khoan vào ầu của anh ta. Ngay cả lúc ấy sự tinh tấn của Ngài vẫn mạnh mẽ như trước, nó không vơi giảm chút nào. Chánh niệm của Ngài cũng vẫn cực kỳ vững chắc ưu trội. Không bao giờ Ngài ánh mất giác tỉnh. Khi sự tinh tấn ầy au ớn mãi gia tăng, toàn thân bị nóng cháy, chỉ có gia tăng mà không vơi giảm. Dầu ở trong trạng thái au ớn như vậy, nhưng ý chí qưyết tâm phấn ấu của Ngài vẫn không thối giảm.
  2. Rồi ý nghĩ sau ây khởi lên trong tâm của Bồ tát : “ Thật tốt thay nếu ta tu tập An chỉ ịnh bằng cách chế ngự thở vô và thở ra.” Bởi vậy, với sự tinh tấn không giảm sút, Ngài chế ngự thở vô và thở ra ở miệng và mũi khiến không khí không thể i vào hoặc i ra. Thế nên, luồng khí mạnh ập vào ầu Ngài, hậu quả là Ngài chịu những cơn nhức ầu kinh khủng. Ví như  cơn au ớn xảy ra do người àn ông khỏe mạnh bị cột chặt sợi dây vòng quanh ầu rồi xiết sợi dây lại. Vào lúc ấy sự tinh tấn của Bồ tát rất mạnh mẽ, nó chẳng bị vơi giảm chút nào. Chánh niệm của ngài cực kỳ vững chắc và ưu trội. Chẳng bao giờ Ngài ánh mất giác tỉnh. Khi sự tinh tấn ầy au ớn lập i lập lại nhiều lần, toàn thân của Ngài bị nóng cháy, chỉ có gia tăng mà không vơi giảm. Dù ở trong trạng thái au ớn như vậy, nhưng ý chí quyết tâm phấn ấu của Ngài vẫn không vơi giảm.
  3. Lại nữa, Bồ tát lại suy nghĩ như vầy: “ Thật tốt thay nếu ta vẫn tiếp tục thực hành pháp An chỉ ịnh (Appānaka Jhāna).” Bởi vậy, bằng sự cố gắng không giảm sút, Ngài tiếp tục kềm chế hơi thở vô ra qua ường mũi, miệng và tai, như trước. Do ó, hơi thở bị dồn nén gây au ớn dữ dội tựa như ang cắn xé trong bụng của Ngài. Ví dụ như một người bán thịt lanh lẹ (hay người phụ việc của ông ta) cầm cây dao bén mổ vào bụng vậy. Vào lúc ấy cũng vậy, sự tinh tấn của Ngài vẫn mạnh như trước, nó không vơi giảm chút nào. Chánh niệm của Ngài vẫn cực kỳ vững chắc và ưu trội. Không bao giờ Ngài ánh mất giác tỉnh. Khi sự tinh tấn ầy au ớn của Ngài mãi gia tăng dồn dập; toàn thân nóng cháy, chỉ có tăng mà không vơi giảm. Dù ở trong trạng thái au ớn như vậy, nhưng ý chí quyết tâm phấn ấu của Ngài vẫn không thối giảm.
  4. Lại một ý nghĩ khác khởi sanh trong tâm của Bồ tát: “ Thật tốt thay nếu ta vẫn tiếp tục tu tập phương pháp An chỉ ịnh (Appānaka Jhāna).”  Bởi vậy, với sự tinh tấn không chùn bước, Ngài tiếp tục kềm chế hơi thở vô ra qua ường miệng, mũi và tai như trước. Nhân ó, toàn thân của ngài bị ốt cháy dữ dội (ḍāharoga). Ví như một người àn ông yếu ớt bị hai người àn ông mạnh khỏe ghì giữ hai cánh tay của ông ta và ặt ông ta trên ống lửa lớn, ông ta bị ốt cháy như vậy. Vào lúc ấy, toàn thân của Bồ tát ở trong trạng thái nóng cháy. Cũng vào lúc ấy, sự tinh tấn của Ngài vẫn không vơi giảm mà vẫn mạnh như trước. Chánh niệm của Ngài rất rõ ràng và vững chắc. Tuy nhiên, vì ớn au tạo ra do sự tinh tấn mạnh mẽ nên Ngài không ược an lạc. Tuy thế, ý chí quyết tâm phấn ấu của Ngài vẫn không suy thối.

Chú ý: Đoạn (a) ược trích dẫn từ bộ Jinālaṅkāra Ṭīkā. Đoạn (b) ược trích dẫn từ bài kinh Mahāsaccaka Sutta.

Bồ tát kiệt sức khi ang i và ngã xuống trong tư thế ngồi 

Bị hành hạ bởi sức nóng mãnh liệt ang ốt cháy khắp châu thân, Bồ tát kiệt sức và ngã xuống trong tư thế ngồi khi ang i. (Là người có chánh niệm mạnh mẽ, Ngài chỉ ngã xuống trong tư thế ngồi trong khi ang i kinh hành, không té sấp). Khi Bồ tát ngã xuống như vậy thì chư thiên có mặt ở gần ó ưa ra ba cách nhận xét.

(1) Một số chư thiên nói rằng: “ Sa-môn Gotama ã chết.” (2) Số khác nói rằng: “ Sa-môn Gotama chưa chết.” (3) Một số khác nữa thì nói rằng: “ Sa-môn Gotama không phải ã chết cũng không phải ang chết. Sa-môn Gotama ã thành bậc A-la-hán. Đó là tư thế ngồi của bậc A-la-hán.”

Từ chư thiên ưa ra ba lời nhận xét này, những vị mà nói rằng: “ Sa-môn Gotama ã chết”, i ến ức vua Suddhodāna và báo cho vị ấy biết rằng: “ Con trai của bệ hạ ã chết.” Khi ức vua hỏi lại: “ Con trai của ta ã chết trước khi chứng ắc Phật quả hay sau khi chứng ắc Phật quả?” Họ áp lại rằng: “ Con trai của bệ hạ không có cơ hội ể thành Phật.Trong khi ang nỗ lực phấn ấu thì vị ấy ngã xuống và chết tại ó, trên con ường kinh hành.” “ Ta không tin lời nói của các vị chút nào cả. Nếu chưa chứng ắc Nhất thiết trí thì cái chết không thể xảy ến cho con trai ta.” Đức vua nhấn mạnh một cách quả quyết.

Bồ tát tiết ộ vật thực 

Khi hồi tỉnh, Bồ tát suy nghĩ như vầy: “ Thật tốt thay nếu ta thực hành phương pháp nhịn ăn.” Nhân ó, chư thiên nói với Ngài rằng: “ Hỡi Bồ tát, bậc Sa-môn cao quý! Đừng nhịn ăn hoàn toàn. Hỡi Bồ tát, vị Sa-môn cao quý! Nếu Ngài nhịn ăn hoàn toàn thì chúng tôi phải ưa vật thực của chư thiên qua các lỗ chân lông của Ngài và Ngài sẽ ược nuôi sống bằng vật thực ấy.” Rồi ý nghĩ sau ây khởi lên trong tâm của Bồ tát: “ Nếu ta quyết ịnh không ăn chút nào cả, nếu chư thiên cho vật thực qua các lỗ chân lông của ta thì sự tuyệt thực sẽ không còn ý nghĩa gì nữa.” Thế nên, Ngài nói với chư thiên: “ Hỡi chư thiên, ừng ưa vào vật thực qua các lỗ chân lông của ta. Ta sẽ ộ vật thực vừa ủ ể giữ mạng sống.”

Từ ó trở i, Bồ tát không tuyệt thực, mà chỉ ăn ít dần lại. Với bữa ăn trong một ngày, có khi Ngài ộ một nắm súp lentil, có khi Ngài ộ một nắm súp ậu, có khi Ngài ộ một nắm súp ngũ cốc và lúc khác ộ một nắm súp ậu xanh. Do chỉ ăn một nắm súp ậu như vậy trong một ngày nên thân của Bồ tát gầy ốm cùng cực và kiệt quệ.

Vì dùng quá ít vật thực, nên tứ chi lớn nhỏ của Ngài nhô ra ở các chỗ nối các khớp xương, gầy ốm và teo tóp ở những chỗ khác giống như những loại cây keo có mắc nối ở mỗi oạn như cây āsītika và cây kāla. Hai mông của Bồ tát bị nhăn nheo giống như hai cái mông của con lạc à, còn hậu môn thì bị lún sâu vào bên trong. Xương sống của Bồ tát lồi ra và lõm xuống ở những khoảng giữa hai ốt xương sống giống như xâu chuỗi lớn. Thịt giữa các ốt xương sống lõm xuống tạo thành hình thù xấu xí, thô kệch giống như sườn của một cái chòi cũ kỹ. Hai con mắt chìm sâu trong hốc mắt như hai bong bóng nước nổi lên trong một cái giếng sâu. Da ầu teo tóp và nhăn nheo giống như trái bầu non bị phơi khô dưới nắng.

Vì da bụng dính vào cột xương sống, nên khi sờ vào da bụng thì ụng cột xương sống, và khi sờ cột xương sống thì cũng ụng vào da bụng. Khi ngồi vệ sinh thì nước tiểu không ra ngoài vì không có ủ vật thực lỏng ở trong bụng ể biến thành nước tiểu. Còn nói về phẩn thì chỉ có một hoặc hai viên cứng cỡ bằng hạt cau ược thải ra một cách khó khăn. Mồ hôi toát ra nhễ nhại khắp toàn thân và Ngài ã ngã xuống tại chỗ với mặt úp xuống ất. Khi Bồ tát dùng bàn tay xoa vào thân thể ể làm vơi dịu nỗi au chút ít, do không ược thịt và máu nuôi dưỡng, nên lông trên thân của Ngài bị chết ở gốc ã rụng theo bàn tay của Ngài khi Ngài sờ ến.

Nước da tự nhiên của Bồ tát vốn có màu vàng óng ánh như màu của vàng siṅgīnikkha. Nhưng trong số những người trông thấy Ngài khi Ngài ang chuyên tâm hành pháp khổ hạnh, họ nói rằng: “ Sa-môn Gotama có nước da en sẫm.” Số khác thì nói rằng: “ Nước da của Sa-môn Gotama không phải màu en sẫm, mà màu nâu.” Số khác nữa thì nói rằng: “ Da của Sa-môn Gotama không phải màu en sẫm cũng không phải màu nâu; nó có màu xám như màu của con cá trê.”

(Độc giả của bộ Buddhavaṃsa này có thể ngừng ọc một lát và suy nghĩ: “ Bồ tát thực hành pháp khổ hạnh mà người bình thường nhận thấy khó thực hiện, không phải trong vài ngày hoặc vài tháng. Thực vậy, Ngài thực hành như vậy suốt sáu năm ròng rã. Dù phấn ấu như vậy suốt sáu năm dài, nhưng chưa bao giờ Ngài khởi lên ý nghĩ như vầy: “ Ta chưa thành ạt Nhất thiết trí dù ã thực hành với biết  bao gian nan. Thôi ược, trong tình huống này, ta sẽ trở về hoàng cung và ược hầu hạ bởi bốn chục ngàn cung nữ có hoàng hậu Yasodharā dẫn ầu. Ta sẽ hạnh phúc phụng dưỡng người mẹ Gotamī và cha Suddhodāna của ta, cùng tám chục ngàn quyến thuộc vẫn còn sống của ta.” hoặc “Sau khi thọ hưởng vật thực thượng vị giống như vật thực của chư thiên, ta sẽ ở trên chiếc giường lộng lẫy một cách sung sướng.” Chẳng bao giờ dù một ý nghĩ mơ hồ nhất về một cuộc sống phóng ãng và buông thả mà khởi sanh trong Ngài. Đối với người bình thường, chỉ nghĩ về lối thực hành  các hình thức khổ hạnh này, họ cũng không dám nghĩ ến, ừng nói ến việc bắt tay thực hành nó. Do ó, nó ược gọi là khổ hạnh (dukkaracariyā).

             Ma vương giả bộ bày tỏ thiện ý ến Bồ tát mong lung lạc                                          ý chí của Ngài 

Vào lúc Bồ tát i xuất gia, Ma-vương (Māra) ã nói những lời mong làm nhụt chí Ngài như sau: “ Hỡi này thái tử Siddhattha, vào ngày thứ bảy kể từ hôm nay, xe báu sẽ ến. Đừng i xuất gia.” Nhưng Bồ tát áp lại một cách quả quyết: “ Hỡi Ma vương, Ta biết rằng xe báu sẽ ến với Ta. Tuy nhiên Ta không muốn thọ hưởng lạc thú của vị Chuyển luân vương. Ngươi hãy i i! Đừng ở lại ây! Ta sẽ nhiệt tâm phấn ấu ể chứng ắc Phật quả, nhờ ó khiến mười ngàn thế giới ều vang dội.” Kể từ ó Ma vương ã theo sát Bồ tát suốt sáu năm ể tìm cơ hội ánh bại Ngài với ý nghĩ: “ Nếu những ý nghĩ về dục tầm (kamavitakka), hay sân tầm (vyāpādavitakka) hay hại tầm

(vihiṁsāvitakka) mà khởi sanh trong dòng tâm của vị ấy thì ta sẽ giết vị ấy ngay tại chỗ.” Nhưng kể từ ó suốt sáu năm, Ma vương không thể tìm thấy một tà tư duy nào trong tâm của Bồ tát.

Sáu năm trôi qua, Ma vương suy nghĩ: “ Thái tử Siddhattha có sự tinh tấn vĩ ại. Pháp khổ hạnh của vị ấy rất dũng mãnh. Vị ấy có thể thành Phật trong một ngày nào ó. Ta nên ến và cho vị ấy một vài lời khuyên, nhờ ó khiến vị ấy ngưng tu tập.” Rồi Ma-vương ến gặp Bồ tát và nói cho Ngài biết những ý ịnh của hắn. 

(Sau khi thành ạo, Đức Phật ã thuyết pháp ến các vị tỳ khưu bài kinh Padhāna Sutta, nói về việc Ma vương ến thuyết phục Ngài qua sự thiện ý giả bộ, và Ngài ã dũng cảm ối áp với Ma vương như thế nào. Cuộc àm thoại giữa Ma vương và Bồ tát sẽ ược kể lại bây giờ).

Ma vương ến gặp Bồ tát khi Ngài ang tu tập pháp Chỉ tức ịnh (Appānaka jhāna) trong khu rừng Uruvela, gần con sông Nerañjarā với chí nguyện duy nhất là chứng ạt Niết bàn, Ma-vương nói rằng: “ Này bạn thái tử Siddhattha, toàn thân của bạn ã quá gầy ốm vì thiếu thịt và máu. Tướng mạo xinh ẹp và nước da của bạn ã xấu i rất nhiều. Cái chết ang ến rất gần, cơ hội sống sót của bạn rất mỏng manh, chỉ còn một phần ngàn. Hỡi thái tử Siddhatta, hãy chăm lo bản thân may ra bạn có thể sống lâu hơn. Sự trường thọ là tối thắng và áng trân trọng. Nếu bạn sống lâu, bạn có thể làm nhiều việc phước. Bạn có thể tạo phước bằng cách thọ giới hoặc tổ chức những buổi lễ cúng tế. Có lợi ích gì mà sống như vậy trong rừng và thực hành pháp khổ hạnh ến khổ sở và tiều tụy như vậy mà không biết liệu sẽ chết hay không. Để ạt ược mục tiêu của bạn là Niết bàn, con ường cổ xưa ấy quả thật rất khó theo. Thật khó ạt ến và khó bước theo con ường như vậy.”

Bằng cách này, Ma vương ã nói những lời thương cảm bằng ầu môi chót lưỡi, tựa như hắn có thiện ý ối với Bồ tát và tựa như hắn ang thương xót cho Ngài. (Người bình thường có thể bị thuyết phục bởi những lời ường mật như vậy của Ma vương).

Khi nghe những lời có vẻ ầy thiện ý của Ma vương, Bồ tát quả quyết áp lại rằng: “ Này Ác-ma, ngươi là kẻ chỉ có thể trói buộc những chúng sanh không có chánh niệm gồm nhân loại, chư thiên và Phạm thiên ể họ không thể thoát khỏi luân hồi! Ngươi ến trước mặt Ta vì lợi ích của riêng ngươi và với ẩn ý gây tai hại và rối ren cho kẻ khác.” (Qua những lời này, Bồ tát ã chối từ cuộc viếng thăm với thiện ý ầy thâm ộc của Ma-vương). “ Ta không ưa thích chút nào về loại phước chỉ dẫn ến luân hồi khổ (vaṭṭagāmi). Lẽ ra ngươi nên nói như vậy với những ai khao khát phước hữu lậu. (Với những lời này, Bồ tát phủ nhận lời nói của Ma-vương rằng: “ Nếu bạn sống lâu, bạn có thể làm nhiều việc phước.”)

“ Này Ác-ma, có những người không có niềm tin (saddhā) chút nào ối với Niết bàn; có những người có niềm tin như vậy nhưng tinh tấn (viriya) quá yếu, lại có những người có ủ cả hai, niềm tin lẫn tinh tấn nhưng không có trí tuệ (paññā), ngươi nên nói chuyện với họ và khuyến khích họ nên trân trọng sự sống lâu. Về phần Ta, Ta có sự tin tưởng tuyệt ối rằng, nếu phấn ấu hết mức thì ngay trong kiếp này Ta sẽ giác ngộ Niết bàn – nơi mà thân Ta sẽ ngưng hiện hữu. Ta có sự tinh tấn nhiệt tình, có khả năng ốt cháy, và biến tất cả cỏ rác phiền não thành tro bụi. Ta có trí tuệ vô song, giống như cái chày sấm sét của Đế thích và có thể nghiền nát ngọn núi vô minh (avijjā) ra thành mảnh vụn. Ta cũng có cả niệm (sati) lẫn ịnh (samādhi). Niệm giúp Ta có thể thành Phật - Bậc không bao giờ quên iều gì ã làm và ược nói ến trải qua nhiều thế hệ, và ịnh tâm ứng vững trước ngọn cuồng phong của các pháp thăng trầm, giống như cột trụ bằng á ược chạm trổ, không lay chuyển trước cơn bão lớn. Nhờ có ầy ủ năm ức tánh này giúp Ta có thể ạt ến bờ bên kia của Niết bàn, Ta ang xả thân ể tinh tấn hành ạo. Với một người như Ta, tại sao ngươi muốn bàn về sự trường thọ và tại sao ngươi lại huênh hoang khuyên bảo Ta hãy tiếp tục sống? Thực ra, ối với một người chỉ sống một ngày trong cõi nhân loại, có sự siêng năng vững chắc và sự kiên trì mạnh mẽ, có trí tuệ nhờ An chỉ ịnh (appanā-samādhi) và thông ạt sự sanh và diệt của các danh sắc uẩn, sống như vậy không áng ca ngợi lắm sao?” (Với những lời này, Bồ tát ã e dọa lại Ma vương khi hắn nói lời dọa dẫm rằng: “ Hỡi thái tử Siddattha, cái chết của người ang ến rất gần, cơ hội sống sót của người rất mỏng manh chỉ có một phần ngàn.”)

“ Này Ác ma, gió trong thân Ta, ược tạo ra do tốc ộ tinh tấn trong việc thực hành thiền An chỉ ịnh (appanā-samādhi) có khả năng làm khô cạn nước sông Hằng, sông Yamuna. Tại sao nó không thể làm khô lượng máu ít ỏi trong thân ta, người mà tâm ang hướng ến Niết bàn? Thật vậy, gió này ủ mạnh ể làm cạn kiệt. Khi máu trong thân ta, dung lượng chừng 4 ambaṇa, ã khô do gió dồn nén ược tạo ra bởi sự nỗ lực của ta trong việc hành thiền ể chứng ngộ Niết bàn. Mật có hai loại, ược kết hợp (baddha) và không ược kết hợp (abaddha); và àm dung lượng khoảng 4 ambaṇa, nó che phủ tất cả những gì ược ăn và nuốt vào trong bụng ể mùi thối không bốc ra ngoài, và nước tiểu cùng những dưỡng chất cũng chừng 4 ambaṇa,  chắc chắn cũng khô cạn. Nếu máu, mật, àm, nước tiểu và dưỡng chất khô cạn, tâm của Ta sẽ càng trở nên trong sáng hơn. (Sự cạn kiệt như vậy sẽ không khiến Ta rút lui. Vì ngươi không biết rằng tâm của Ta rất kiên ịnh nên ngươi nói những lời về ‘sự yêu thích ời sống’

(jīvitanikanti) như: ‘ Hỡi thái tử Siddhattha, toàn thân của người rất gầy ốm do mất máu và thịt.’ v.v…) Không những tâm của Ta ược trong sáng mà niệm của Ta, giống như châu báu của vị Chuyển luân, và trí tuệ của Ta giống như kim cang chùy bằng kim cương, và ịnh của Ta cũng như núi Meru không bị lay chuyển, càng trở nên mạnh hơn và vững chắc hơn.”

“ Dù máu và thịt trong Ta hoàn toàn cạn hết, tâm của Ta vẫn tươi tỉnh và càng trở nên trong sáng hơn và ạt ến cảm thọ vô song mà chỉ những vị Bồ tát cao quý mới trải qua. Dù toàn thân ã khô héo ến mức phát lửa khiến Ta phải kiệt quệ hoàn toàn, tâm của Ta cũng không hướng về các dục lạc, như kinh thành và những cung iện của nó, có Yasodharā, Rāhula, bốn chục ngàn cung nữ và những người hầu, v.v... Này Ác ma, ngươi hãy nhìn vào sự thanh tịnh và tâm chánh trực vô song của Ta - người ã thực hành viên mãn các pháp Ba-lamật.” (Với những lời này, Bồ tát ã chứng tỏ tinh thần kiên cố của Ngài).

Mười loại binh ma 

  1. Này Ác Ma, có những vật dục (vatthu-kāma) hữu tình lẫn vô tình, và những phiền não dục (kilesa-kāma), là sự ái luyến những vật dục này. Cả hai loại dục này khiến các gia chủ mê muội không thấy ược Chân lý. Do ó, hai loại vật dục này, vatthu-kāmakilesa-kāma, tạo thành ội quân thứ Nhất của ngươi. Một số gia chủ phàm phu (putthujjana) ã chết giữa những tài sản (gihibhoga) của chính họ, vì họ không thể rũ bỏ tài sản dù họ biết sự xuất hiện của một vị Phật (Buddh’uppada dullabha) là khó và ời sống của một vị Sa-môn (pabbajitabhāva dullabha) khó có ược. Đối với những vị Sa-môn, thì các vật dụng như y phục, bình bát, thiền viện, khu rừng, giường ghế, khăn trải giường mà họ ưa thích và thọ hưởng, là tất cả vật chất thuộc dục lạc. Và có những vị Sa-môn còn phàm phu chết giữa những vật chất thuộc dục lạc của Sa-môn, gồm có bốn thứ: vật thực, y phục, chỗ ngụ và thuốc chữa bệnh ược cư

sĩ cúng dường. Họ chết như vậy vì họ không thể buông bỏ chúng, dù khi mới xuất gia ã ược chỉ dạy, sử dụng cội cây làm chỗ ngụ, dùng y phục ược may bằng những tấm vải vụn lấy từ những ống rác, ăn vật thực do i bát và dùng nước tiểu bò en làm thuốc trị bịnh. Những gia chủ và những Sa-môn này gặp phải cái chết ghê tởm vì bị giam hảm bởi oàn binh ma thứ Nhất, là vật dục và phiền não dục.” (từ bản dịch Nissaya của ngài Ledi Sayadaw về bài kinh Padhāna).

  1. Sau khi kiên quyết từ bỏ các tài sản thế tục sống cuộc ời Samôn, một số có chiều hướng hay chán ghét (arati) và bất mãn (ukkaṇthita) ời sống Sa-môn, không thích thú trong việc học pháp và hành pháp, không thích ẩn cư trong rừng, và không thích thực hành thiền Chỉ và thiền Quán. Do ó, sự chán ghét (arati) và bất mãn (ukkaṇṭhita) tạo thành oàn binh ma thứ Hai của ngươi.” (Một số Sa-môn gặp phải cái chết do bị rơi vào biển sâu của ội binh ma thứ Hai).
  2. “Một số Sa-môn ã thắng phục ội binh ma thứ Hai, khi thọ trì các pháp ầu à (dhutaṅga) và vì giới luật của pháp ầu à rất nghiêm ngặt, là pháp buộc họ phải ăn những gì có sẵn như tất cả các loại vật thực ược trộn chung với nhau; một số không thể ăn theo ý thích (nghĩa en, một số không thể ăn một cách ngấu nghiến, như cách con bò bị khát nước khi ược dẫn ến bến nước, uống nước một cách ngon lành), và vì họ không ược thỏa mãn và lại ói bụng, khổ như con giun ất quằn quại do chạm phải muối. Vì ói và khát (khuppipāsa) khởi lên và hoành hành, họ mất i sự ưa thích trong ời sống Sa-môn và bị ám ảnh bởi nỗi khao khát cháy bỏng việc ăn vật thực. Sự ói và khát (khuppipāsa) này tạo thành ội binh ma thứ Ba của ngươi, này Ác ma.” (Một số Sa-môn gặp phải cái chết vì họ ắm chìm trong biển ói khát của oàn binh ma thứ Ba).
  3. “Khi bị hành hạ bởi ói và khát, thân và tâm của một số Sa-môn trở nên nhu nhược và tuyệt vọng. Họ nhụt chí, lười biếng và khổ sở. Do  sự giải ãi (tandi) khởi sanh, họ không muốn hành ạo. Sự giải ãi này tạo thành ội binh ma thứ Tư của ngươi, này Ác ma.” (Một số Sa-môn gặp phải cái chết vì bị ắm chìm trong biển giải ãi của oàn binh ma thứ Tư).
  4. “ Vì không tiến bộ về mặt tâm linh và trở nên lười biếng, tuyệt vọng, họ buồn chán và thối thất. Từ ngày ó, vì hôn trầm và thụy miên, họ thường xuôi tay nằm ngủ trong tịnh xá, lăn qua lăn lại, nằm úp mặt xuống ất. Sự hôn trầm thụy miên (thinamiddha) này tạo thành ội binh ma thứ Năm của ngươi, Ác ma.” (Một số Samôn gặp phải cái chết vì bị ắm chìm trong biển hôn trầm thụy miên của oàn binh ma thứ Năm).
  5. “ Ngủ quá ộ do lười biếng sẽ gây nên sự bế tắc trong pháp thiền và sự u tối trong tâm của họ. Bị chế ngự bởi tham ái, họ trở nên yếu uối và bị lẫn lộn trong những việc vụn vặt. Do sợ hãi (bhiru) sanh khởi, họ bị dao ộng vì kinh hãi, và với tâm dao ộng, họ nhầm lẫn cội cây với con voi, con cọp với dạ-xoa. Sự sợ hãi (bhiru) này là ội binh ma thứ Sáu của ngươi, Ác ma.” ( Một số Sa-môn gặp phải cái chết vì bị ắm chìm trong biển của ội binh ma thứ Sáu).
  6. “ Sau khi khắc phục ược sợ hãi và lấy lại can ảm nhờ pháp hành, họ cố gắng hành thiền nhưng Đạo dẫn ến thiền ịnh và quả ã chìm sâu. Do hoài nghi (vicikicchā) sanh khởi, họ không biết chắc là họ ã thực sự bước vào Đạo hay chưa về cả hai mặt pháp học và pháp hành. Hoài nghi (vicikicchā) này là ội binh ma thứ Bảy của ngươi, Ác ma.” (Một số Sa-môn gặp phải cái chết do bị ắm chìm trong biển của ội binh ma thứ Bảy).
  7. “Sau khi bản thân tự khắc phục ược hoài nghi (vicikicchā), một số nỗ lực hành thiền ngày êm không gián oạn. Vì những tướng bất thường của thiền khởi sanh trong họ, nên họ sanh ra ngã mạn. Do cống cao và ngã mạn (makkha-thambha) sanh khởi; họ không hòa ồng với những vị Sa-môn khác; họ phá hoại danh tiếng của họ; họ không tôn kính những vị trưởng lão. Sự cống cao và khinh mạn này là ạo binh ma thứ Tám của ngươi, Ác ma.” (Một số Samôn gặp phải cái chết do bị ắm chìm trong biển của ạo binh ma thứ Tám).
  8. “Sau khi ã khắc phục ược cống cao và khinh mạn (makkhathambha), họ tiếp tục hành thiền, họ thấy thêm nhiều ấn tướng lạ thường hơn và trở nên ngã mạn về sự tiến bộ của họ. Nhiều hình thức của ái mạn (taṇhā-māna) rất có thể khởi sanh, như họ vui thích thỏa mãn vì có nhiều vật cúng dường; họ hài lòng thỏa mãn vì tiếng tăm của họ ược lan truyền khắp nơi; họ hài lòng thỏa mãn vì nhận ược những lợi lộc quí hiếm mà không ai có; và họ hài lòng thỏa mãn vì danh tiếng và tùy tùng của họ có ược do sự thuyết giảng tà pháp, khoe khoang ước muốn bất chánh vì sự gia tăng lợi lộc của họ. Những hình thức ái mạn này là ạo binh ma thứ Chín của ngươi, Ác ma.” (Một số Sa-môn gặp phải cái chết do bị ắm chìm trong biển của ạo binh ma thứ Chín).
  9. “Một số Sa-môn có sự ái mạn như vậy lại sanh ra tật xấu khác là tự tán thán (att’ukkaṁsana) và chê bai kẻ khác (paravambhana). Sự tự tán và hủy tha này là ạo binh ma thứ Mười của ngươi, Ác ma.”

“ Này Ác ma, ngươi dùng quyền lực ngăn cản nhân loại, chư thiên và Phạm thiên không cho thoát khỏi luân hồi khổ, kẻ có những ạo binh to lớn ! Mười pháp này như  dục (kāma), chán ghét (arati), v.v… là những chiến hữu của ngươi. Này Ác ma, kẻ có tâm không trong sáng mà hoàn toàn en tối và ầy tham vọng! Chúng cũng là khí giới của ngươi nhằm giết chết từng vị Sa-môn hoặc ẩn sĩ trên ường i của họ. Những kẻ phàm phu áng thương mà ức tin, ý chí, tinh tấn và trí tuệ của họ yếu ớt và là những kẻ thiếu can ảm, họ không thể chống chỏi và thoát ra khỏi sự tấn công của ngươi. Chỉ những bậc anh hùng cực kỳ gan dạ, có niềm tin, ý chí, tinh tấn và trí tuệ to lớn mới có thể ối ầu chống lại và thoát khỏi vòng vây của ngươi. Sau khi chiến ấu và kháng cự, sự vượt thoát này có thể em lại sự an lạc của Đạo, Quả và Niết bàn, thoát khỏi những nguy hiểm của gươm ao và những loại khí giới khác mà thuộc về mười ạo Ma binh của ngươi, Ác ma.”

“ Này Ác ma, Ta muốn ngươi biết về Ta như sau: Vị thái tử Siddhattha này, là con người cao quý, bậc anh hùng thực sự, khi ra chiến trường không bao giờ lùi dù chỉ một bước. Vị ấy quả thật là vị tướng lãnh lỗi lạc, mang trên ầu những bông hoa dũng cảm, những bông hoa của loại cỏ muñja ược xem là iềm tốt, là anh hùng thực sự, là lá cờ chiến thắng. Nếu Ta bị ngươi ánh bại mà rút lui khỏi trận chiến và còn sống trong thế gian này, thì quả thật ó là iều xấu hổ, nhục nhã và áng khinh thường. Do ó, hãy xem Ta là người có niềm tin vững chắc như vầy: ‘Chết giữa chiến trận tốt hơn là nhận thất bại trước sức mạnh của ngươi!’ ”

“ Vì trong thế gian này, có những vị Sa-môn và Bà-la-môn trong chiến trận phiền não, mặc chiếc y vàng và trang bị ầy ủ những món vật dụng như là bộ yên cương của họ, nhưng thiếu sức mạnh, sẽ bị mười ạo binh Ma của ngươi ánh bại. Như vậy, họ giống như những người không có ánh sáng của các ức như giới, v.v... ành phải chìm vào bóng tối. Vì họ bị khống chế bởi mười ạo binh của ngươi, này Ác ma, nên họ không còn cách nào có thể biết ược con ường của bánh xe Pháp bảo, ó là Thất giác chi (Bojjhaṅga) - con ường tối thắng mà chư Phật Độc giác và Thinh văn Phật bước vào ể ạt Niết bàn. (Do ó, Ta là người sẽ ánh bại mười ạo binh của ngươi và giương cao lá cờ chiến thắng).”

Nghe Bồ tát nói những lời cương quyết như thế, Ma vương ành biến mất khỏi chỗ ấy mà không thể ối áp ược một lời.

Những iểm áng nghi vấn  

Trong chương nói về khổ hạnh (dukkaracariyā) này, một số iểm nghi vấn có thể ược nêu ra : “ Phải chăng Bồ tát không thể thành Phật nếu không thực hành dukkaracariyā?” (Nghĩa là : “ Phải chăng Phật quả chỉ ược chứng ắc qua sự thực hành dukkaracariyā?” hoặc “Phải chăng Phật quả không thể chứng ắc nếu không có pháp hành dukkaracariyā?” Câu trả lời : “ Có hay không có dukkaracariyā, Bồ tát vẫn có thể thành Phật vì Ngài ã thực hành viên mãn các pháp Ba-la-mật (pāramī), các pháp xả ly (cāga) và các hạnh (cariya).”

“ Nếu Phật quả có thể xảy ra mà không cần ến dukkaracariyā, thì tại sao Bồ tát thực hành pháp ấy một cách cần mẫn như vậy?” Phần vì Ngài muốn chứng tỏ trước nhân loại, chư thiên và Phạm thiên sức tinh tấn vô song của Ngài và phần vì Ngài ã suy xét rằng tâm của

Ngài sẽ tràn ngập hỉ lạc mỗi khi nhớ lại những ức tính tinh tấn của Ngài sau khi chứng ắc Phật quả nên Bồ tát ã thực hành dukkaracariyā một cách cần mẫn như vậy. Ví như một vị vua thọ hưởng vương quyền do sự kế vị theo thông lệ mà không phải bỏ công chiến ấu với kẻ thù; khi ứng giữa chánh cung, vị ấy không thể có sự vui sướng to lớn như vị hoàng ế dành ược vương quốc sau khi chiêu tập quân binh ã ánh bại và chiến thắng kẻ thù. Thực vậy, vị hoàng ế ấy rất vui sướng khi nghĩ rằng: “ Ta ã có ược vương quyền này nhờ ã hành ộng như vậy, tại chỗ như vậy và nhờ chiến thắng kẻ thù bằng cách như vậy, như vậy.” 

Một cách trả lời khác là: Bồ tát thực hành dukkaracariyā vì Ngài muốn làm gương cho các ệ tử sau này. Những ệ tử tương lai ấy khi biết về sự thực hành dukkaracariyā của Bồ tát sẽ suy tư như vầy: “ Ngay cả Đức Thế Tôn cũng chứng ắc Nhất thiết trí chỉ sau khi thực hành dukkaracariyā, dù Ngài ã thực hành viên mãn các pháp ba-la-mật trong bốn a-tăng-kỳ (asaṅkkheyya) và một trăm ngàn ại kiếp. Còn chúng ta thì như thế nào ây? Có lẽ chúng ta sẽ chứng ắc Đạo Tuệ (magga-ñāṇa) chỉ khi nào chúng ta tự mình nỗ lực trong pháp thiền. Khi nhận ra sự thật, họ sẽ tin rằng sự tinh tấn trong việc hành thiền (padhāna viriya) là iều áng làm.

Khi họ ã tin tưởng như vậy và tự thân nỗ lực tinh tấn, họ có thể chấm dứt sanh, già và chết (Nibbāna). Do ó, Bồ tát thực hành dukkaracariyā do lòng bi mẫn của Ngài ối với các ệ tử trong tương lai bằng cách làm gương cho họ.

Theo thông lệ, mỗi vị Bồ tát trong kiếp cuối cùng của các Ngài ều thực hành dukkaracariyā ít nhất là bảy ngày; Đức Phật của chúng ta cũng làm như vậy và Ngài ã thực hành dukkaracariyā trong sáu năm. Nhưng Ngài thành Phật không phải do dukkaracariyā của Ngài. Thực ra, Ngài chứng ắc Phật quả chỉ nhờ pháp Trung ạo (Majjhima paṭipatti). Bồ tát thực hành dukkaracariyā ể cho thế gian cùng với chư thiên thấy rằng ó không phải là con ường dẫn ến Đạo.

Tuy có một số Bồ tát thực hành khổ hạnh trong thời gian ngắn là bảy ngày hoặc một tháng hoặc gần như thế. Tuy nhiên, Bồ tát của chúng ta ã thực hành trong sáu năm do kết quả của một ác nghiệp về lời nói, mà Ngài ã gây nên khi Ngài sanh làm Bà-la-môn Jotipāla trong thời kỳ của Đức Phật Kassapa vì do ngã mạn về dòng dõi, Ngài ã nói lời xúc phạm Đức Phật Kassapa: “ Làm sao vị Sa-môn ầu trọc này có thể giác ngộ Đạo Tuệ và Nhất thiết trí, là pháp khó thành ạt ?” (Majjhima Ṭīkā).

                                 KẾT THÚC CHƯƠNG 6

 

                  BỒ TÁT THỰC HÀNH PHÁP KHỔ HẠNH

]œ

 

.

© Nikaya Tâm Học 2024. All Rights Reserved. Designed by Nikaya Tâm Học

Giới thiệu

Nikaya Tâm Học là cuốn sổ tay internet cá nhân về Đức Phật, cuộc đời Đức Phật và những thứ liên quan đến cuộc đời của ngài. Sách chủ yếu là sưu tầm , sao chép các bài viết trên mạng , kinh điển Nikaya, A Hàm ... App Nikaya Tâm Học Android
Live Statistics
43
Packages
65
Dropped
18
Invalid

Tài liệu chia sẻ

  • Các bài kinh , sách được chia sẻ ở đây

Những cập nhật mới nhất

Urgent Notifications